DƯƠNG HÙNG CƯỜNG
.
Dương Hùng Cường
(1934 – 1987).
Dương Hùng Cường, còn ký Dê Húc Càn, sinh ngày 1-10-1934 ở Hà nội, gia nhập Không quân, thụ huấn cơ khí viên tại Pháp năm 1953, trở thành hạ sĩ quan cơ khí phục vụ tại nhiều đơn vị từ 1955.
Từ giữa thập niên 1960 phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Không Quân với cấp bậc Chuẩn úy. Ông là một cây bút nổi tiếng trong giới văn nghệ, cộng tác với nhiều nhật báo, tuần báo ở Saigon.
Sau 1975, Dương Hùng Cường bị tù cải tạo tới năm 1979. Năm 1984, bị bắt giam với tội danh gián điệp do viết bài gửi ra nước ngoài và qua đời tại nhà tù Phan Đăng Lưu, Gia Định năm 1987.
TÁC PHẨM:
Lính Thành Phố (Truyện dài, 1966)
Buồn Vui Phi Trường (Tự truyện, 1969)
Vĩnh Biệt Phượng (Truyện dài, 1972)
Mười Năm Ngồi Trên Cao (Tập thơ truyện không quân thời chiến, 1974)
Lòng tôi lúc nào cũng chỉ băn khoăn thắc mắc về những hình ảnh không bền, không vững chắc, như những đám mây kia, trôi lang thang khắp bầu trời, khi gặp núi thì ngừng lại. Nhưng núi giữ mây lại để làm gì? Suốt ngày, nằm buồn tênh, nhìn xuống cái thung lũng cô đơn rồi tan dần, tan dần. Núi càng cao thì mây tụ lại càng nhiều. “Vạn lý sầu lên, núi tiếp mây”.
Ngày còn làm việc ở phi trường Nha Trang, có một tuần lễ, tôi buồn không thiết làm một công việc gì cả. Trước mặt tôi là núi, đằng sau lưng là biển. Ngước mắt nhìn lên chỉ thấy trời cao. Tôi bị vây chặt ở đây. Cuộc đời cứ mòn đi, cứ rỉ đi. Tôi bước xuống cầu thang vào trong quán ruợu. Tuần lễ ấy, tiền ghi sổ của quán rượu phi trường lên gần tới nửa tháng lương. Tôi thấy lòng mình thật trống rỗng và khắc khoải, trở lại cái buồn của tuổi mười sáu khi nghe tin người yêu đi lấy chồng.
Một thằng bạn khuyên tôi:
– Mầy đừng uống rượu nữa. Mới đầu mầy buồn, mầy đi uống rượu. Nhưng rồi về sau mầy mà không uống thì buồn không thể nào chịu nổi…
Tôi biết như vậy lắm…Tôi nhìn vào tận đáy ly, có đôi mắt tôi ở trong đó. Tôi xoay ly để nghe tiếng nước đá chạm vào thành ly lanh canh…Mầy không hiểu được tao…Nha Trang vào tháng chín, trời đầy những đám mây sẫm màu chì. Biển in thành mây nên bớt đi màu xanh của trời. Người ta gọi những người tuổi còn trẻ là những người tóc còn xanh, nhưng nhìn vào tấm gương trước mặt tôi thấy tóc tôi màu đen.
Tóc tôi không còn màu xanh, có phải rằng tôi không còn trẻ nữa…
Buổi tối, khoảng mười giờ đêm, con tắc-kè ở đầu dãy cư xá, tắc lưỡi kêu lên mấy tiếng. Mấy thằng trong cư xá reo ầm lên:
– Kìa, mấy cái thằng Bắc-kỳ, nó gọi chúng mầy, sao chúng mầy không dạ đi..
Chẳng có thằng nào tức giận, vì đây là ở trong trại lính. Cái đùa dỡn thật hồn nhiên, không có một tí ti gì kỳ thị. Có nhiều khi cái thằng nói câu đó lại là một thằng chính cống Bắc-kỳ.
Tôi uống rượu say ban đêm để cố tìm một giấc ngủ. Một giấc ngủ không mộng mị, lúc thức dậy là thấy mặt trời, chứ không phải cái ánh sáng vàng vọt của mặt trăng sừng trâu nằm chênh chếch về phía núi.
Tôi làm việc ở Đài Kiểm-soát phi trường. Đài kiểm-soát ở trên nóc phi cảng. Tầng lầu giữa là quán ăn. Phi cơ tới thường đậu dưới chân tôi. Cánh cửa phi cơ mở ra, từng đoàn người đi xuống, những tà áo xanh, áo đỏ bay phất phới trong gió biển lộng thổi. Từ trên cao, chúng tôi thường lấy ống nhòm theo dõi những người đẹp diễu qua trước mặt mà phê bình với nhau:”Cô này cẳng dài không biết mệt; cô kia mặt dài, mặt tròn, lá vông, lá tre…”. Rồi tàu bay cất cánh, sân đậu của phi cảng lại trơ trẽn nằm dưới nắng. Chiếc ống gió bị gió thổi, cố vươn mình lên nằm ngang. Nhìn quanh, chỉ thấy phi đạo, đường vận chuyển, hăng-ga, ngàn đời vẫn nằm yên, buồn nản …
Từ ngày tôi uống rượu, thiên hạ không dám bắt tôi làm việc. Không ai mà dại gì trao sinh mạng cho một thằng say, mồm bốc hơi lửa, thở ra muốn cháy cả chiếc micro. Tôi giữ chân bắn hỏa pháo. Tôi kéo ghế ra ngồi, tay cầm súng, dưới chân, một đống hỏa pháo xanh, đỏ, trắng. Hỏa pháo màu xanh: cho phép cất cánh, cho phép hạ cánh. Hỏa pháo màu đỏ, không được cất cánh, không được hạ cánh. Hỏa pháo màu trắng: trở về sân đậu.Thường thường, tôi chỉ dùng hoả pháo màu đỏ. Lệnh cấm mới truyền nhanh chứ lệnh cho phép thì cứ tà tà, đàm thoại bằng vô tuyến cũng là quá đủ rồi…
Nhiều khi, tôi nghĩ thương cho chính phủ. Cứ phải trả lương cho tôi, lương của một thằng chuyên viên cao đẳng, chỉ để bắn hoả pháo. Vậy mà cũng không nên thân. Có một lần, tôi bắn hỏa pháo rớt gần một chiếc phi cơ đang đổ xăng làm thiên hạ hoảng hồn. Cái thằng tôi, thật là vô ích. Mà tôi thật vô ích như vậy, tại sao không cho tôi giải ngũ?… Cũng may là cái thời gian chán nản qua mau. Tôi lại làm việc như thường. Vẫn còn vài ba chiếc phi cơ lên xuống, phi cơ hạ cánh và cất cánh ngược chiều gió để thu ngắn khoảng cách chiều dài phi đạo.
Những chiếc phi cơ kia là máu, còn phi trường kia là con tim. Máu đi khắp cơ thể rồi lại trở về tim. Còn tôi, tôi ngồi ở giữa phi trường. Tôi là con tim của con tim. Nhưng chung quanh tôi, không phải là màu đỏ của máu mà chỉ toàn là màu xanh. Màu xanh của biển, màu xanh của trời, màu xanh của núi, màu xanh của tuổi trẻ. Cái buồn nản vẫn bàng bạc trong tôi, vài hôm lại len lén trở về, nhưng không còn mãnh liệt như trước.
Nhiều thằng bạn tôi, thằng nào cũng thú thật rằng đứa nào cũng có một thời kỳ chán nản như vậy. Ngồi nói chuyện với nhau một lúc, chúng tôi thường đổ tội cho thời thế…
Nhưng cái thời thế này, nào có tội tình gì. Sống thì thật là dễ. Làm quan còn dễ dàng hơn là đàn bà đẻ. Đàn bà đẻ còn phải cần 9 tháng 10 ngày chứ làm quan chỉ cần có sáu tháng học trường Thủ Đức.
Chiếc đồng hồ treo trên tường bụi phủ mờ mặt kính. Chiếc kim dài muốn nhích lên, vượt qua con số 12. Chiếc kim ngắn nằm đè lên một nửa con số 9. Trên trần nhà chiếc quạt nhiều bụi bám không kém gì chiếc đồng hồ, quay uể oải, uể oải…
– Sao giờ này mà lão đốc-tờ chưa tới nhỉ?
– Chắc là lúc lão vùng dậy định đi làm, bà vợ lại nũng nịu kéo xuống, đòi…để tăng hương vị cho bữa ăn sáng.
Tiếng cười vang…Một chị y tá xấu đến “ma chê, quỷ hờn”, làm điệu, nguýt hai anh y tá mặc áo blouse trắng không mang lon, rồi bĩu môi:
– Chỉ được cái ngồi tán nhảm..Quên rằng trước mặt có đàn bà con gái à? Từ sáng đến giờ, ai đã lấy phiếu y lý của những người khai bệnh chưa?
Mấy anh chàng y tá định nói đùa vài câu chuyện về đàn bà con gái với chị nhưng trông cái mặt thì ai cũng phát chán nản. Người ta thường ví những nàng y tá như những con én làm thêm mùa xuân cho bệnh nhân, nhưng ở cái nhà thương này, nàng y tá chỉ làm bệnh viện thêm một bóng thần chết. Có lẽ người ta nghĩ rằng bệnh viện cho lính thì cần gì. Nhiều thằng lính, nhờ chị y tá chích “ven”, duỗi thẳng tay, cố ý và vô tình đụng phải ngực chị mà cũng không thấy lòng mình nổi dậy một cái gì cả. Có thằng dám quả quyết rằng, nếu chị được gài huy chương dù có đâm sâu chiếc kim gài huy chương vào ngực chị đến mấy cũng không thể làm cho chị đau vì nó đã được bảo vệ một cách hữu hiệu bằng một thành trì cao su mút.
Khi nhắc đến chuyện lấy phiếu y lý, một chàng y tá chợt nhớ đến công việc, đứng lên đẩy chiếc cửa, đi ra phía ngoài. Anh tự nghĩ:”Bệnh của lính thành phố thì dễ biết quá mà! Chỉ cần chích cho một phát pê-ni-xi-lin.” Vừa đẩy cửa ra, anh đã thấy bệnh nhân nằm, ngồi, đứng ngổn ngang. Trên tường treo tấm bảng “Đưa sổ khám bệnh trước 7 giờ 15. Ngoài giờ đó, không nhận sổ”. Như vậy có nghĩa là những thằng lính mắc bệnh, đủ các thứ bệnh hay chẳng có bệnh gì cả, đã phải chờ đợi từ lúc sáng sớm.
– Bác sĩ đã tới chưa xếp?
Chàng y tá trả lời mà mắt không thèm nhìn người vừa hỏi câu đó:
– Chưa tới!
Trong nhà binh, thì chức nào cũng có thể gọi bằng “xếp” mà không sợ bị giận. Lính, cai, đội, quản, chức nào cũng có thể là xếp. Nếu mà muốn nịnh thêm một tý nữa, xưng “em” với xếp thì các xếp khoái bằng chết.
Trong nhà thương, lúc nào cũng xẩy ra những cảnh đau lòng. Chàng binh bớp đang lên cơn suyễn, nằm dưới gạch, thở khò khè. Tấm thân gầy còm như bơi lội trong bộ đồ “trây-di” nhàu nát, kho phát cho thế nào thì mặc y nguyên như vậy. Hắn nằm cứng đơ, mồm ngáp như con cá bị đưa lên cạn. Những người bạn hắn đang mở thắt lưng quần cho hắn dễ thở. Chiếc khóa thắt lưng vừa bung ra thì những chỗ nhăn nhúm của lưng quần được dịp giải tỏa, từ từ giãn ra, kéo hai cái đầu thắt lưng cứ ngắn dần ngắn dần…
– Trung sĩ, trung sĩ…cho thằng này nó vào khám trước không nó kềnh ra đây bây giờ…
Anh chàng y tá mặc áo blouse trắng không mang lon tuy là binh nhất nhưng được gọi là trung sĩ, quay lại gắt một cách đáng yêu:
– Kệ nó, không sao đâu…Bác sĩ chưa tới.
Chàng binh bớp mang bệnh suyễn vẫn nằm trên gạch, thở khò khè. Tai hắn vẫn nghe thấy tiếng người ta trò chuyện. Trông hắn bây giờ đến thật là thảm.
– Làm bác sĩ nhà binh sướng thật…Tới chín giờ mà chưa cần đi làm. Nếu ông không là lính, ông quẳng ra hai trăm đồng bạc, tha hồ mà mấy lão đốc-tờ o bế…
Tiếng than ấy của một thằng lính giầu vì thầu quần áo, giặt đồ cho Mỹ. Làm giầu ở cái xứ này vào cái thời gian này chẳng có khó khăn gì. Tiếng Mỹ chỉ cần học 1 giờ đồng hồ là đủ để giao thiệp với Mỹ. Nào có khó gì đâu…Mang cái xe ra đứng ở cổng trại, chỉ cần bốn tiếng, You? Saigon? Fifty? Ok?…Nếu đứng ở thành phố, chỉ cần đổi một chữ. You? Tân-Sơn-Nhứt? Fifty? Ok?... Chỉ cần thế thôi là cũng đủ làm giầu.
Anh chàng binh bớp gần muốn lịm đi vì đờm kéo lên cổ họng tắc tịt. Hắn cố duỗi cái cổ ra để đớp không khí. Nắng chênh chếch chiếu qua khung cửa sổ, bò ngang dần dần gần tới chỗ hắn nằm. Trong một giây, hắn muốn chết cho thoát nợ. Bên tai còn văng vẳng tiếng người nói chuyện về đề tài “làm bác sĩ sướng thật”. Câu chuyện đang xoay quanh về hướng tục tĩu với những chuyện một ông bác sĩ chỉ thích khám bệnh cho vợ lính.
– Mầy nói láo. Trước khi ra trường, các ông ấy đã phải thề trước tượng thần Hippocrate…
– Thề trước tượng thần Hippocrite thì có.
Thì cũng chỉ khác nhau có chữ i và chữ a ở giữa. Chiếc kim đồng hồ đã chỉ 9g15. Bác sĩ vẫn chưa tới. Anh chàng binh bớp đang nghĩ tới một chuyện khôi hài nào để cười cho đời mình bớt khổ…
“Sau nhà Châu là đến nhà gì? – Thưa thầy, nhà Thương ạ… – Sau nhà Thương là đến nhà gì? – Thưa thầy, sau nhà Thương là đến nhà xác ạ”. Câu chuyện khôi hài trẻ con ấy lại đưa hắn về với cơn suyễn khốn nạn. Nhà xác ở đâu?… Nhà xác ở đâu?… Cho tao vào nằm trong đó. Hắn đập tay xuống sàn nhà thật mạnh. Sàn gạch hoa cứng làm hắn đau tay. A, mình đang nằm dưới đất chứ đâu có phải nằm trên giường đệm. Hắn đập tay mạnh hơn để có một cái đau khác làm dịu đi cơn đau nghẹt thở. Nhưng cả lũ nhao nhao đứng dậy, đứa giữ tay, đứa đè chân. Có thằng lên tiếng rủa ông bác sĩ. Có thằng lên tiếng bênh vực ông bác sĩ. Nghe nói: ổng còn việc quốc gia đại sự quan trọng hơn là cái việc khám bệnh cho lính. Một thằng đẩy cánh cửa, thò đầu vào trong phòng:
– Các ông y tá ơi, ra mà coi, chắc cái thằng này nó sắp chết….
Hai anh chàng y tá vẫn thản nhiên ngồi hút thuốc lá phì phèo vì biết có ra coi cũng chẳng giải quyết được …cái mẹ gì. Chị y tá vì là đàn bà, mà dù cho đàn bà xấu vẫn có nhiều lòng nhân đạo hơn đàn ông, động lòng trắc ẩn, quay ra hỏi:
– Ai?…Ở đâu?…Thế nào?…
Cái thằng có cái đầu ở giữa hai cánh cửa nháy mắt:
– Có thằng sắp chết ở ngoài này. Cô ra coi thử, nếu thấy nó ngắc ngoải thì búa cho nó một búa.
Chị y tá, tuy thuộc loại “em là gái trời bắt xấu” nhưng không thích nói đùa. Chị gắt:
– Muốn nói gì thì cứ vào hẳn trong này. Đứng thập thò cứ như là…
Chị định dùng một chữ “cứ như là” thật nặng nhưng khi anh chàng kia thò vào một nửa người, chị thấy cái nút trắng cài trên ngực áo. Chị nghĩ bụng “thượng sĩ gì mà nhóc thế…” rồi đứng dậy đi ra cửa. Thằng thượng sĩ nhóc đứng chắn ở cửa nên chị phải ra. Lợi dụng lúc qua chiếc cửa hẹp, thằng thượng sĩ nhóc thò tay, sờ mông chị một cái. Tưởng rằng bị mắng nhưng không ngờ chị y tá lại nhìn nó cười.
Và cái thằng thượng sĩ nhóc ấy, chính là tôi đấy. Những thằng lính thành phố trốn việc, chỉ còn một cách đi khai bệnh nhà thương để cho qua những khoảng trống thời gian buồn nản. Chị y tá cũng nghe, cũng gõ, nhưng ai cũng biết rằng đó chỉ là một việc “nặng về phần trình diễn”. Chị kết luận:
– Không sao đâu…
Một hồi chuông điện thoại reo vang. Trong phòng có tiếng nhấc máy lên rồi tiếp theo có tiếng dạ dạ liên hồi. Sau những tiếng dạ chấm dứt, có tiếng đặt ống nghe xuống nhè nhẹ. Một cái đầu thò ra:
– Bác sĩ hôm nay đi họp hội đồng. Không có khám bệnh.
Lũ lính thành phố dìu nhau, bước ra ngoài nắng, thất thểu đi về…
Tôi rời bỏ Đài Kiểm-soát phi trường để về làm việc ở một bàn giấy. Cái thế giới của tôi lại hẹp thêm. Ở Đài Kiểm-soát phi trường, nhiều khi thấy những phi cơ từ Clark, từ Naha, từ Hong Kong tới, tôi còn cảm thấy những thứ đó còn mang về cho tôi một chút gió hải hồ. Nhưng bây giờ, ở cái bàn giấy này, những tờ giấy đi và đến mang lại trong tôi một cái chán nản vô cùng.
Tôi chỉ là lính thành phố. Dù rời bỏ được thành phố này, tôi lại phải tới một thành phố khác. Những con đường trong thành phố, quen thuộc như những đường chỉ tay. Rõ rệt quá, và cũng vô duyên quá. Biết trước được ngày mai, ngày kia và có lẽ cả cuộc đời ái tình và sự nghiệp của mình. Không có một cái gì bất ngờ cho lính thành phố.
Hằng năm, mỗi khi trái đất vừa quay xong một vòng quanh mặt trời, bao nhiêu năm rồi. Những thông điệp tổng kết tình hình, tất cả đều nói tới cái chiến thắng trong năm tới. Chiến tranh nhất định sẽ chấm dứt trong cái năm mà người ta thay cuốn lịch. Nhưng chiến tranh cứ tiếp diễn, năm này qua năm khác, dù cho ông lớn đọc thật rõ câu kết của bức thông điệp đầu năm…”năm nay thắng lợi nhất định về ta…”
Có nhiều thằng sợ chiến tranh chấm dứt lắm. Như thằng Văn Cò chẳng hạn…Ngồi nói chuyện với nó một lúc là được nghe tâm sự não lòng:
– Tao chỉ sợ ông Hồ đầu hàng..
Nó sợ ông Hồ đầu hàng thì một viễn ảnh đen tối đang chờ nó ở đầu đường tương lai. Học không hay, cày không biết…Cởi bộ quần áo ka-ki ra là ….đói. Nó sợ bị đầy đi xa thành phố. Nhiều khi nó cũng biết rằng thái độ của nó nhiều lúc thật hèn. Nhưng cái chữ quốc ngữ này, chữ “hiền” và chữ “hèn” cũng gần giống nhau.
– Mầy có bao giờ nghĩ đến câu thơ cổ mà tao quên mất nguyên văn…nhưng dịch nôm ra nó như thế này….
Nó ngừng một chút, gật gù cái đầu, rung đùi tít lên rồi đọc:
“Chim muông đã hết, cung tên bỏ xó.
Cáo thỏ hết rồi, chó săn cũng tiêu…”
Nó tự nhận là một loại chó săn, tuy rằng là một loại chó săn biết suy nghĩ. Hơi khác Pascal một tí. Và cao hơn một tí. Nhưng như vậy cũng đã tủi quá lắm rồi. Tôi gắt khẽ:
– Thôi mầy để tao làm việc.
– Làm việc cái mẹ gì. Xếp đi vắng thì ngồi chơi cho nó sướng cái thân. Lát nữa, nó về, lúc đó mầy tha hồ mà làm việc.
Thì ra với nó, chỉ làm việc khi nào có mặt xếp. Mà thật ra, công việc của bàn giấy cũng chẳng có gì để phải bận tâm. Cái khó khăn nhất vẫn là cái công việc làm sao để ngồi cho thật chắc trên chiếc ghế. Làm việc ở bàn giấy, bao giờ quần cũng rách trước áo. Nếu có hai cái áo thì phải có tới bốn cái quần.
Tôi quẳng cái bút, nhìn lên tấm bản đồ trước mặt. Chữ in trên bản đồ, ngày trước là tiếng Tây, bây giờ thì là tiếng Anh. Không biết đến bao giờ nước tôi mới vẽ nỗi một cái bản đồ?…Chiếc bản đồ này chắc là loại mới nên thấy có vẽ thêm xa lộ. Cái xa lộ ngắn ngủi như một cái gạch nối, ấy vậy mà cũng gây sôi nổi một dạo. Cái nước tôi, than ôi, sao mà lắm chuyện.
Qua cửa sổ, sau dẫy nhà, mây trắng nõn như bông trôi nhẹ trên nền trời. Cái không gian của tôi, bây giờ chỉ có vậy. Tôi thở một hơi rất dài:
– Có lẽ tao xin đi một đơn vị lục quân, để đi tác chiến…
Văn Cò trợn mắt nhìn tôi:
– Mầy điên à?…Ngồi một chỗ không sướng hay sao mà lại muốn lội sình, trèo núi, lăn lưng vào những chỗ nguy hiểm? Để làm gì? Muốn làm anh hùng hả? Muộn rồi, con trai ơi, sao không đi ngay cái lúc mầy mới vừa hai mươi tuổi?
Tôi nhún vai:
– Mầy nói gì mà nguy hiểm. Mầy không đọc báo và nghe phát thanh về chiến sự hay sao? Bao giờ cũng có câu cuối cùng là “quân ta hoàn toàn vô sự”. Như vậy, đi làm lính chiến đâu có gì là nguy hiểm? Mầy có đi cùng tao không?
– Chuyện đó thì không có tao.
Văn Cò ái ngại nhìn tôi. Có lẽ nó nghĩ rằng tôi chán đời vì hay bị xếp gọi lên xỉ vả. Xếp tôi là anh chàng quan ba Hoàng. Hắn học cùng lớp và cùng khoá với tôi nên tôi biết rõ tài năng hắn quá. Có lẽ vì vậy mà hắn thấy tôi có vẻ ba gai khó chịu. Tôi làm việc gì hắn cũng chê. Có lần hắn nói thẳng vào mặt tôi:
– Không hiểu sao mà anh cũng lên được tới Thượng sĩ?
Tôi nham nhở nói lại:
– Thì tôi cũng muốn hỏi: “Không hiểu sao mà ông lại chỉ có Đại-úy?”
Cả cái phòng làm việc im lặng chờ đợi một cơn nổi giận lôi đình của xếp. Nhưng xếp không to tiếng mà đứng dậy đi ra cửa. Bước chân dằn mạnh như muốn làm sập nền nhà. Tôi về chỗ ngồi, đốt một điếu thuốc lá, tay run run, phải quẹt hai que diêm mới đốt nổi điếu thuốc. Tôi chỉ kéo được từng hơi thuốc ngắn. Tôi thấy nhớ cái không khí của Đài Kiểm Soát phi trường. Nhìn thì thấy trời rộng lớn vô cùng, thấy hết tất cả, nhưng những tấm kính ngăn giữ bước chân, không cho được bay ra phía ngoài. Một cái tự do trong lồng…Cái tự do giả tạo với những người lính thành phố, suốt ngày tà tà, “ngồi chơi xơi nước”. Đường thành phố chật hẹp mà vẫn có những thứ cấm quân, cấm trại. Thói quen của lính thành phố là nhìn đồng hồ. Chiếc kim đồng hồ cứ nhích đi, thật chậm và thật nhanh. Thật chậm với một ngày và thật nhanh với cuộc đời.
Văn Cò nhìn tôi:
– Tao thấy mầy có vẻ ba gai làm sao ấy. Muốn sống ở thành phố, phải tròn như hòn bi, lăn đi chỗ nào cũng được. Chặt bớt gai đi. Không hiểu sao mầy lại được đổi về Sàigòn?
Tôi không trả lời Văn Cò mà nghĩ tới cái số phận mình. Mới đầu, thiên hạ định đổi tôi đi Pleiku hay một vùng Cao-nguyên hẻo lánh để sống chung với khỉ. Nhưng những nơi đó không nhận.
Lý do phản đối cũng vững lắm. Không phải rằng những kẻ nào phế thải thì cho đi lên đơn vị Cao-nguyên. Như vậy thì những đơn vị xa thành phố chỉ gồm có những thằng bỏ đi hay sao?
Kết quả, tôi bị về Sàigòn….
Văn Cò an ủi:
– Buồn mà làm gì. Rồi sẽ có một ngày chúng mình làm lớn. Chúng mình sẽ trả thù.
Tôi thấy rằng trong lòng nó, lúc nào cũng bàng bạc một tư tưởng trả thù. Công danh ở xứ này như cái bệnh teo chim. Mới đầu mắc bệnh thì con chim phình ra thật lớn, nhưng rồi dần dần, con chim thu nhỏ lại, thật nhỏ để rồi không lớn ra được nữa. Có những kẻ một thời lẫy lừng, nhưng rồi bây giờ lếch thếch và lủi thủi đi trên đường phố không ai thèm ngó tới. Đi vào công danh như những người leo núi.
Lên đến đỉnh núi là bắt buộc phải xuống mà vẫn còn ngó lại sau lưng tiếc quãng đời đứng trên đỉnh núi nhìn những trò dâu bể diễn ra ở dưới chân.
Tự nhiên tôi có một ý tưởng anh hùng Tàu:
– Theo tao nghĩ thì không nên báo thù. Lúc này nó là chỉ huy trưởng, mình báo thù nó là mình dại. Khi nó bị “thất sủng”, mình mà báo thù nó là mình hèn. Không nên báo thù…
Tôi nói hăng hái và cảm thấy hãnh diện. Đó cũng là một tư tưởng cách mạng đấy chứ. Tôi cứ tưởng rằng câu đó của tôi, một con đường cách mạng, nhưng có biết đâu câu đó đã xuất hiện ở “Quốc-văn Giáo-khoa thư” hàng mấy chục năm nay.
Và cuối năm ấy, chính phủ lại vẫn cho lính mượn tiền…tiêu Tết.
- 1 -
Tiến >>
Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: baovecovang2012.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 8 năm 2021