Đứa Con Độc

trịnh báu

uốn cây thời uốn lúc non
(tục ngữ)

Giời trở gió. Ngoài kia, hình như có đám quỉ sứ đùa nghịch thoắt trong làng, thoắt ngoài đồng. Cái mâm thau nhà nào bị gió đánh đổ kêu đánh choe... oeng, giẫy đành đạch rền rĩ. Tiếng chó cắn hóng phía đầu làng. Cành mít đập loạt xoạt lên mái ngói phía đầu hồi nhà. Cái cành mít chết tiệt này. Nó làm cho lão mất ngủ. Dưới nhà ngang, mẹ con nhà Điền chưa ngủ. Thằng bé con bi bô nói chuyện với mẹ. Đêm hôm mà thằng bé cứ oang oang. Mẹ nó dọa:

- Cu...! U bảo có be bé mồm đi không! Để cụ Chánh còn ngủ. Cụ dậy bây giờ cụ đuổi đấy!

- Cụ đuổi nhà cu đi đâu hở?

- Cụ đuổi cả nhà ta ra khỏi làng.

Thằng bé im thin thít. Lão lật chăn trở dậy. Vớ chiếc áo bông treo trên mắc áo, lão khoác lên người, rờ rẫm đến phía bộ tràng kỷ. Lão khêu cao tim đèn, cầm se điếu vuốt vuốt, kéo thuốc tạch... tạch. Ánh lửa đóm bập bùng, khói um lên. Năm gian nhà quạnh quẽ quá. Giá như bà ấy còn sống, tiếng đằng hắng của bà lão sẽ khiến lão đỡ cô độc. Lão sẽ lấy trịch của mình mà trút hết sầu não lên bà ấy: “Giời ơi! Các cụ nói có bỏ đi câu nào! Con hư tại mẹ... Bà chiều nó lắm để bây giờ đến nông nỗi này!”.

Bên ngoài, đám quỷ sứ vẫn hun hút nghịch ngợm. Thoắt ẩn, thoắt hiện. Căn nhà lạnh lẽo, im như tờ. Trên xà nhà, tiếng con thạch sùng chép miệng “tiếc, tiếc”. Cô quạnh đến thối cả ruột gan. Giời ạ! Giời bắt tội đến thế là cùng. Lão ngồi thu lu trên tràng kỷ, im như tượng; chẳng buồn đánh thức vợ chồng nhà tá điền dưới nhà ngang dậy đốt lò pha trà. Lão với lấy nậm rượu trong tủ chè toan rót rượu uống. Nhưng...! Rượu ơi! Gái đẹp ơi! Đám giặc này đã hại biết bao nhiêu người từ cổ chí kim rồi. Gương tày liếp đấy! Mà sao từ đấng quân vương đến thằng bố đĩ không thoát nổi nhỉ? Lão làm chánh tổng tuy ít học nhưng lão cũng hiểu anh hùng Từ Hải nghênh ngang một cõi là thế mà chịu chết đứng, không nhắm mắt vì cô Kiều lầu xanh. Cụ Lí Bạch tài hoa thơ phú, thế mà rượu vào khật khưỡng, nhảy xuống nước toan vớt chị Hằng để rồi chết chìm. Còn mấy thằng bố đĩ, cho nó ăn uống, khiến mấy ả thợ cấy cặp kè với chúng; rồi sai lao vào lửa chúng nó cũng không quản. Ấy là tháng trước lão lên chùa Hà, sư cụ dạy thế. Sư cụ đọc câu kệ: “A di đà Phật! Của thiền vô biên, sắc sắc không không. Chúng sinh trầm luân trong vòng tham sân si! Sám hối! Sám hối”.

Lão lẳng nậm rượu vỡ đánh choang. Rượu lênh láng nền nhà, men bốc nồng nồng. Thôi chết! Lão tiếc rẻ, chợt nhớ rằng đó là nậm rượu của ông nội lão có chữ “nội phủ” rành rành dưới trôn. Bố lão kể lại: Năm ấy cụ nhà ta có công, được Đức vua đặc ân ban thưởng ngự tửu. Nhờ cái nậm rượu đặc ân, nhà lão cha truyền con nối làm chánh tổng ở phủ Vĩnh này. Lão tiếc rẻ...

Dưới nhà ngang, thằng cu con ngủ mê, mếu máo “Cụ ơi! Cự đùng đuổi nhà cháu”. Mẹ nó nựng con trong hơi ngái ngủ “Ngủ đi! ngủ ngoan! cụ thương rồi! thương rồi!” Bố nó càu nhàu trong cơn ngủ mệt ú ớ câu gì không rõ.

Lão cảm thấy mình vô nghĩa, trơ trẽn giữa vắng lặng trong đêm gió rét này; của đệm lông chim, chăn bông, sập gụ, tủ chè, hoành phi, câu đối, giữa dinh cơ ba đời chánh tổng này. Hai chữ đại tự “Vạn phúc” trên hoành phi cùng đôi câu đối “Phúc lộc lai thành” - “Tử tôn kế nghiệp” như trêu ngươi lão. Lão trân trân ngước lên bàn thờ. Những tấm nhiễu màu điều phủ các bài vị tím bầm màu máu đọng, hương khói lạnh ngắt ngơ.

Lão vuốt vuốt se điếu, kéo hơi thuốc tành tạch, phả khói mơ... mơ.

Lão rầu rầu nhìn khắp căn nhà. Ngậm ngùi… Năm gian nhà gỗ lim ngày nào lên nước sẫm bóng, nhộn nhịp kẻ hầu hạ bây giờ đang xỉn mốc. Vài tổ tò vò lốm đốm bậu trên ngạch cửa. Căn nhà vắng lặng hắt hiu. Vắng cả tiếng bi bô của thằng bé con nhà Điền “Cụ ôi! Cụ ôi!”. Lão tần ngần nhìn lại vệt mồ hôi láng bóng, hằn một góc tràng kỷ. Lão lên tuần nhang thỉnh các cụ cao tằng tổ tỉ và vợ lão, lầm rầm khấn vái. Kéo xong một hơi thuốc lào lão lẩm nhẩm bấm đốt ngón tay... ngày ấy đến giờ đã 18 năm!

- “Con lạy thầy! Con khấu đầu tạ tội với thầy! Có cả cụ Chánh đây! Dưỡng bất giáo, phụ chi quá. Thầy dạy con cặn kẽ nhưng con không dạy được thằng con con... ở nhà nó là thằng bất hiếu, bất mục, ra ngoài thiên hạ nó thành đứa bất nghĩa, bất nhân mất thôi! Tội của con... tội của con...”, ông khách nhà cụ đồ Học nói đến đấy mếu máo, hai tay vả vào mặt mình, đôi mắt nhăn nheo ầng ậng nước, búi tóc muối tiêu xổ tung.

Cụ đồ Học nhiu nhíu đôi mày, vuốt vuốt chòm râu ngũ chòm trắng như tuyết lựa lời an ủi ông khách nhưng không quên dạy bảo cho người học trò già chữ “đạo”, chữ “gia”. Lão ngồi nghe cụ đồ dạy trò thấy như vận vào mình... Nghĩ đến đấy lão thấy ớn lạnh sống lưng. Lão quyết ra đi tìm nó!

Qua khỏi phố phủ Phù Lỗ thì đã quá ngọ, lão định bụng đến chợ Chờ thì nghỉ lại. Cứ chiếc đòn ống gồng đôi quang sọt lão thủng thẳng đi; cất tiếng rao già nua khàn khàn: “Ai cắt tỉa uốn cây cảnh ơ...! Ai cắt tỉa uốn cây cảnh ơ...!”.

Đến chợ Chờ, vừa giở mo cơm nắm ra trệu trạo được vài miếng, lão chợt ngừng nhai, dỏng tai nghe chuyện của mấy ông lái trâu. Họ kháo nhau về tân quan phủ Từ. “Quan trẻ lắm mà đã đỗ đạt. Nghe đâu là con nuôi nhà hàng cơm phố Nỉ. Má trái quan có vết sẹo dọc, đuôi mắt phải quan có vết chàm như con rết đen xì. Tướng ấy...”

Lão bồn chồn tăm nước qua loa, nhai miếng trầu hỏi đường đi ngang tới phủ Từ. Ngồi trên thuyền qua bến đò Lo, mưa phùn giăng mành mờ mờ, vẳng tiếng chuông thu không phía Xuân Lai, mé Lủ vọng lại buồn bã. Người ta đang nói chuyện lá giong, gạo nếp, đỗ xanh, kháp đậu thịt lợn, chuyện lo tiền biếu thầy đồ về quê... Sắp hết tháng chạp rồi! Tết đến nơi!

Đêm ấy, lão trọ lại chợ Núi. Câu chuyện của cánh lái trâu ở chợ Chờ cứ ám ảnh lão. Con nuôi... vết sẹo... vệt chàm... còn trẻ... cứ ám ảnh lão. Có phải thằng Quý nhà lão không nhỉ? Đẻ nó ra đỏ hon hỏn đã có vệt chàm ấy rồi. Bà mụ gắn vào đấy hay là quên không xóa đi cho nó. Thôi có xấu một tí nhưng ba đời nhà lão độc đinh rồi, tưởng là tuyệt tự. May mà ông giời còn thương cho họ nhà lão. Năm nó lên bảy tuổi, nhà có con trâu cà, nó cứ khăng khăng đòi cưỡi. Con trâu cà đánh sừng, thằng Quý hút chết, mang thêm vết sẹo dọc má. Có phải nó đấy không nhỉ? Ôi dào! Thiên hạ thiếu gì người giống nhau... Nhưng người còn trẻ... con nuôi. Năm ấy nó bỏ chạy! Lão chập chờn, dằn vặt, đoán non đoán già.

Lão trở mình trên chiếc giường cọt kẹt, lòng nặng trĩu. Thế là đã mấy tết rồi đi tìm con. Một tết nằm co ro trên Bắc Mục - Hà Giang nghe pháo nổ đì dẹt mà ứa nước mắt. Một tết lênh đênh ngoài cửa Vân Đồn: sóng và gió, và những tấm buồm bạc thếch vá chằng vá đụp. Một tết nằm bên kia bờ sông Lệ nghe mô tê răng rứa, nghĩ thân già đày ải nắng sương, gà gáy canh ba, lão thiếp đi.

Lão gặp thằng con lão. Cha con mừng mừng tủi tủi hàn huyên. Nó quỳ sụp xuống chân lão tạ tội.

Lão thấy nó câng câng nhìn lão, mặt phớt lạnh, phe phẩy tay quạt đi vào nhà trong. Lão uất tận cổ, xấn xổ chạy vào toan giáng cho mấy cái tát, rồi kể tội nó cho người ta rõ. Hai người lính lệ giữ chặt lấy lão. Lão giẫy giụa cố hét thật to.

Hai bác phó mộc giường bên cạnh lay lay người lão. Lão thở dốc, vã mồ hôi.

Quan phủ Từ nhấm nháp chén trà, đi đi lại lại ngắm chậu trúc quý. Chậu trúc sử quân tử thật lạ, thật đẹp, hẳn đẹp lòng quan án. Hai chú lính phải lặn lội cả tháng trời đi châu Thanh Sơn mới kiếm được về. Chỉ có hai cây trúc với mấy đọt măng trong chiếc chậu đá hoa cương hồng ngọc mà bao ý vị. Quan gật gù mãn nguyện. Cây cái cao hơn thước, dáng cứng cáp tuy hoi cong cong một tí, da trúc lổ đổ đốm rêu. Mấy nhánh trúc đậm ngang thế “hoành”, gân guốc có ý như chào đón, có ý như khoe khoang về cây trúc con mập mạp, rắn rỏi cùng đám măng mầm chen chúc dưới gốc mơn mởn lông nhung. Cả chậu trúc là cảnh đoàn viên phúc lộc đề đa của ba đời trong một nhà. Hẳn là quan án vui lắm khi chậu trúc cảnh này được đặt trong tư dinh của ngài dịp tết này. “Ở đời là thế! - Quan phủ ngẫm nghĩ - Không có gì hay bằng đón được ý, làm đẹp được lòng quan trên. Muốn chỗ mình ngồi cho chắc, muốn được thăng quan tiến chức phải biết kín trên, bền dưới. Dại gì vướng vào những chuyện đâu đâu...”

Quan phủ khoan khoái chiêu ngụm trà, tận hưởng dư vị chan chát, ngọt ngào, ngan ngát hương sen. Chợt quan chau mày. Cái cành thứ ba của cây nhỏ này cong queo, vặn vẹo như cánh tay ngỗ ngược có ý bất phục vít lên ngọn cây cái. Phải sửa lại, phải uốn lại kẻo mấy kẻ rỗi hơi, tán hươu, tán vượn, thêm thêm bớt bớt; quan án nổi cáu lên thì không có chỗ mà chui. Quan đưa ngón trỏ vuốt vuốt vết sẹo dọc má, cau cau suy nghĩ lung lắm. Nếu sơ sểnh gì khó lòng mà đỡ được bởi địa vị thấp hèn của người cha nuôi hàng cơm phố Nỉ. Quan lại nhớ về dòng dõi ba đời chánh tổng của nhà mình. Năm ấy, mình mới hơn chục tuổi đầu. Trong lòng ngài chợt ứa ngập nỗi bẽ bàng xót xa “Ai uốn tỉa cây cảnh ơ..., ai uốn tỉa cây cảnh ơ...”. Tiếng rao khàn khàn già nua phía ngoài cổng phủ đường lọt vào tai ngài.

Ông lão loay hoay bên chậu trúc cảnh, trong lòng như có lửa đốt. Có phải nó! Thằng Quý chết băm chết vằm đấy không nhĩ? Ôi! Con ta! Lỗi này tại cha nuông chiều quá mức. Nuôi mà không dạy dỗ tử tế.

Quan phủ chợt tái mặt khi gặp ông lão uốn cây khép nép trong phủ đường. Quan lui vào nhà trong kín đáo theo dõi ông lão. Lòng quan ngổn ngang nghi hoặc.

Cái thằng Quý con cầu tự đấy ư? - Ký ức già nua của tuổi ngoại thất thập đưa lão về cảnh nhà năm xưa. Bởi hiếm hoi sợ tuyệt tự nên giời cho bắt được mụn con, cả nhà quý nó hơn vàng. Nó đòi gì, muốn gì được nấy. Đi ăn cỗ ở đâu lão cũng cho nó cưỡi con ngưa tháu đi theo. Ngồi vào mâm cùng bố, nó chọn những miếng ngon cắm cổ ăn, ăn chán nó bới đĩa xào, nó khoắng bát canh. Tệ nhất bữa nó đổ nước mắm vào chén rượu của ký Chức, trùm Kết. Người ta sợ uy chánh tổng chẳng nói ra nhưng lần sau họ kiếm cớ đau bụng nhức đầu, lảng hết. Chẳng ai ngồi ăn cùng lão. Lão nhớ rành rành chiều hôm ấy lão bỏ nó ở nhà đi ăn cỗ đám khao thọ bên làng Chùa. Vừa khật khưỡng về đến nhà, vợ lão mặt tái xanh lắp bắp giục lão đi trốn kẻo thằng Quý đang vác dao đi tìm bố, nó nói: “Không cho ông đi ăn cỗ à, về, ông... ông chém, ông chém”. Lão lẳng lặng đẵn cây chuối đặt lên giường, chiếng bong bóng trâu óc ách phẩm hoa hiên, tấm chăn phủ lên trên, đôi guốc xoan dưới chân giường. Trong nhá nhem tranh tối tranh sáng, nó ở đâu hùng hổ chạy vào tay lăm lăm con dao rựa. “Không cho ông đi ăn cỗ này... không cho ông đi ăn cỗ... này...” Mấy nhát dao vung lên liên tiếp, cây chuối đứt, chăn nát, phẩm đỏ lênh láng... Nó bỏ chạy. Bây giờ nó đây à...

Lão do dự... rồi lão mắm môi mắm lợi bẻ gãy gập cành trúc đang uốn dở. Quan phủ hốt hoảng chạy ra rít lên: “Sao lão làm ăn thế này...! Thế này!”. Lão ra vẻ lập cập nhưng nói rành rẽ:

- Bẩm quan lớn! Tội của lão già... Nhưng cái cây ví như đứa trẻ... Bẩm quan lớn, các cụ dạy: Uốn cây thời uốn lúc non. Dạy con từ thuở... Lão... lão có một đứa con... Lão... lão... ★

HẾT

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Hoi_ls - Tạp chí Kiến thức Ngày nay
VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 28 tháng 4 năm 2022