Tình Yêu Truyền Kiếp

hoàng ly - đỗ hồng linh

Mưa phùn, gió bấc. Trời rét căm căm, mây mù sa thấp. Một đêm thượng tuần tháng chạp.

Hà Nội về khuya vắng lặng, hàng cây bên đường ướt át rủ bóng vật vờ, gió đưa xào xạc. Bóng đèn điện kẻ từng hàng thẳng tắp, xa hun hút mặt phố dài võng xuống như trĩu nặng nỗi buồn đêm mưa. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi ướt loáng chạy vụt qua, bánh xe nghiến nước tung toé, hắt cả lên khách bộ hành lướt thướt đi dưới hàng hiên.

Bờ hồ Gươm liễu rủ, mỗi cơn gió thổi, vài chiếc lá vàng bay dật dờ chao qua chao lại trong ánh đèn vàng vọt rồi đáp xuống mặt hồ trôi đi, lạc lõng...

Từ trong bóng cây, một bóng người lặng lẽ đi ra gần bờ nước, hờ hững bước lên cầu Thê Húc, đứng nhìn mặt nước hồi lâu, khẽ buông tiếng thở dài. Ánh đèn soi mặt người tuổi trẻ đậm nét tư lự. Chàng ta đội mũ “phớt", mặc "măng-tô-xan”, ngoài khoác áo mưa, dáng cao, lẳn người, trông vẻ phong lưu. Ngang qua vũ trường Taverne Royale, bước chân người tuổi trẻ chợt chậm lại, tiếng nhạc từ trong hắt ra dập dìu.

Bỗng từ xa, phía Nhà Kèn, một chiếc xe hơi đít vịt đang phóng vùn vụt tới chợt “phanh" gấp. Tiếng xe thắng bất thần khiến chàng trai giật mình quay lại cau mày nhìn.

Một người đàn ông trạc ba mươi, cao to như lực sĩ, khoác pa-đờ-xuy màu xám nhạt, đẩy cửa xe bước vội xuống nói như reo:

- Dũng! Ôi chao! Đêm khuya mưa gió, sao lại lang thang bờ hồ thế này?

- À… Đạt! Mình đi tản bộ chút! Đêm nay tự nhiên mình lại thấy trống trải, bâng khuâng như nhớ... dĩ vãng xa xôi tự kiếp nào!

Chàng tuổi trẻ tên Dũng nhếch miệng cười khó hiểu, vỗ nhẹ vai bạn. Hai người là bạn thân. Hoàng Đạt lớn hơn Dũng mấy tuổi, võ sĩ quyền anh nổi tiếng, hiện làm huấn luyện viên, mở phòng tập tại Hà Nội Ngoài môn đánh "bốc”, Đạt cũng dạy cả võ Trung Hoa, đặc biệt còn thông thạo khá nhiều kỳ môn dị thuật bí truyền, do từng giang hồ ngược xuôi các miền biên địa ma thiêng nước độc. Còn Trần Dũng hiện là sinh viên. Chàng và Đạt gần nhau qua cái duyên võ nghệ. Dũng thích văn chương thơ phú, trọng văn học nhưng cũng chuộng côn quyền, ưa nghiệp võ. Tính rất đa cảm, thường được bằng hữu gán cho cái tên "Dũng thi sĩ”.

- Mình kiếm chỗ nào giải sầu đi, Dũng! Cậu thích Taverne Royale này hay lại đằng Bồng Lai?

Đạt ân cần nhìn Dũng, vẻ cảm thông tâm trạng người bạn đa sầu.

- Ồ! Cậu biết đó! Tớ không hợp lắm với không khí vũ trường...

Đạt cười xòa, kéo bạn lên xe.

- Vậy thì trực chỉ... cao lâu Hàng Buồm! Hà! Với thi sĩ thì chỉ có Trúc Diệp Thanh, Mai Quế Lộ mới nguôi ngoai nỗi sầu vạn cổ! Hà hà!

Xe qua mấy dãy phố, đến khu Hàng Buồm. Hoàng Đạt chọn một hiệu ăn khách trú quen thuộc mời bạn vào. Hai chàng lên gác tìm một bàn sát ban-công vừa trò chuyện vừa ngắm nhìn phố xá rét mướt, tận hưởng cái phong vị của Hà Nội đêm mưa.

Đạt luôn miệng giục bạn ăn, nhưng Trần Dũng chỉ uống nhiều hơn, vẻ mặt càng lúc thêm trầm mặc, nhiều lúc quên cả đối đáp với bạn.

Hoàng Đạt đã quen với tính cách của Dũng nên chỉ cười, không chấp. Từ khi thân nhau, Dũng hường kể về tâm trạng buồn vẩn vơ không căn cứ của chàng. Đạt xem đó là một căn bệnh mà những kẻ lãng mạn thường mắc phải. Có lần chàng đã bảo thẳng Trần Dũng như vậy, nhưng Dũng lắc đầu phản đối:

- Cậu không hiểu! Chẳng phải mình giống như các tay “lãng mạn còm” ấy đâu!

Chàng sinh viên tỏ vẻ khổ sở khiến Đạt ái ngại bèn lảng sang chuyện khác. Bụng vẫn cho rằng bạn lãng mạn, giàu tưởng tượng. Nếu chẳng vì ngại Dũng chạm tự ái có lẽ Đạt đã khuyên bạn tới gặp một đốc-tờ chuyên khoa tâm thần!

Chính căn bệnh quái gở đó đã lôi Dũng ra khỏi giường, đẩy chàng đi lang thang vô định giữa kinh thành Hà Nôi trong đêm trước khi Đạt tình cờ gặp.

- Thêm một bình nữa nhé?

Đạt hỏi bạn. Trần Dũng châm điếu xì gà thứ hai, gật gù chưa kịp đáp bỗng có tiếng chân chạy rầm rập lên cầu thang. Thực khách ai nấy cùng quay lại nhìn. Một người đàn ông đội mũ dạ, trạc bốn mươi, vụt nhô lên dòm nhớn nhác vẻ muốn tìm ai đó.

- Kìa! Chú tài Lực!

Trần Dũng nhác thấy vội gọi giật. Người kia nhận ra chàng, hấp tấp bước lại, kêu lên:

- Cậu Ba! Trời! Tôi đi tìm cậu từ bảy giờ tối đến giờ! May quá!

Hai người tuổi trẻ cùng thoáng giật mình, Trần Dũng đứng phắt dậy hỏi dồn:

- Chuyện gì thế?

Tài Lực, người lái xe cho cha Trần Dũng dưới Nam Định, vừa thở vừa đáp:

- Cụ lớn ở nhà lên cơn đau, truyền lên đón cậu về gấp! Xem chừng cụ… khó qua nổi! Cụ bảo có chuyện hệ trọng cần gặp cậu Ba!

Dũng hoảng hốt:

- Còn các anh tôi?

- Bẩm... Cậu Cả, cậu Hai chắc đã về Nam Định đủ cả rồi.

Trần Dũng quay nhìn Hoàng Đạt. Không đợi bạn nói, họ Hoàng khoát tay:

- Mình cùng về Nam với cậu!

Ba người rời khỏi hiệu ăn. Mấy phút sau hai chiếc xe hơi xả hết tốc lực phóng trên quốc lộ như tên bắn.

Hơn hai giờ khuya mới tới Nam Định. Mưa vẫn sụt sùi. Hai chiếc xe dừng trước một tòa nhà lớn trên phố. Trần Dũng, Hoàng Đạt theo tài Lực phóng lên thềm. Gia nhân nam nữ, họ hàng thân thích đứng đầy trong phòng khách. Một người trạc ba mươi, dáng mập mạp từ trên gác chạy xuống, nắm tay Dũng ứa nước mắt, giọng chìm hẳn:

- Chú Ba! Chú về hơi muộn! Thầy vừa "đi" được nửa giờ!

Trần Dũng bàng hoàng đứng lặng. Người vừa nói chính là Trần Thường, anh cả của Dũng. Chàng theo mọi người lên gác. Trong căn phòng cổ kính, cựu Tổng đốc Trần Hùng nằm ngay ngắn trên giường, mặt phủ tờ giấy bản trắng toát. Trần phu nhân ngồi cạnh khóc nghẹn.

Dũng cúi xuống lật tờ giấy bản nhìn mặt phụ thân. Phu nhân gạt lệ bảo:

- Thầy bỗng lên cơn bạo bệnh, lập tức cho tìm các con về! Nửa giờ trước thầy còn hỏi! Thầy có chuyện quan trọng muốn nói với con!

Dũng lấy khắn lau nước mắt, ngạc nhiên hỏi:

- Thưa, chuyện gì đó mẹ? Sao không nói với hai anh con?

Trần phu nhân chợt đưa mắt ra hiệu cho mọi người lui ra hết, trong phòng chỉ còn lại ba người con trai lớn.

- Thầy "đi" hồi một giờ ba mươi lăm phút, lòng ân hận vô cùng vì không cho con biết sớm! Thầy chỉ trối những việc bình thường, còn việc chính như chúc thư và “việc kia" thầy dặn phải chờ tổ phụ về định đoạt!

Trần Dũng không khỏi cau mày hỏi lại:

- Chờ tổ phụ về ư? Tổ phụ nào? Thầy mê sảng đến thế sao?

- Không đâu! Thầy tỉnh táo cho đến khi nhắm mắt!

Người anh cả Trần Thường lắc đầu xen vào nói:

- Tôi cũng nghe thầy trối mọi chuyện để cụ tổ về định đoạt! Và theo đúng di ngôn lập nguyện của giòng họ Trần ta, thì chính chú là... cụ tổ!

- Trời! Anh cũng… loạn trí rồi ư?

Trần Dũng sửng sốt kêu lên. Nhưng Trần phu nhân đã nghiêm giọng nói luôn:

- Dũng! Anh cả con không loạn trí. Chỉ có con chưa biết chuyện bí ẩn của giòng họ Trần ta, vì thầy con đã do dự suốt hai mươi mấy năm chưa dám cho con rõ!

Ánh nến lắt lay hắt tỏa lên gương mặt phu nhân mờ ảo, giọng bà trầm trầm xa xăm như từ dĩ vãng vọng về:

- Chuyện như vầy! Ngót trăm năm xưa, cụ tam đại các con làm võ tướng triều đình, chống giặc khắp các miền thượng du đất Bắc. Thường cùng Tôn Thất Thuyết, Hoàng Kế Viêm, Ông Ích Khiêm hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đánh quân Tây Dương, quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh, Cờ Trắng Bàn Văn Nhị... Cụ nhà ta văn võ kiêm toàn, làm đến chức Tĩnh Biên phó sứ thì mất bởi một cơn đau ngực lạ lùng! Trước khi thác người có di ngôn lại là sẽ... trở về cõi thế, đầu thai vào cửa nhà Trần ta! “Người" có viết tên họ “người" vào hai lòng bàn chân, hẹn con cháu về sau nếu đẻ con trai cứ thấy ai có hai chữ dưới lòng bàn chân tức đó là “Người"! Sau này, con cháu vẫn giữ kín di ngôn đó, nhưng ông nội con sinh nhiều con vẫn không thấy! Đến đời thầy con, lần thứ ba mẹ vừa chuyển bụng đẻ ra con, ai nấy đều giật mình, thấy chữ ở bàn chân mới biết lời nguyện xưa đã ứng! Cụ tam đại trở về dương thế vì chuyện bí mật nào đó chưa ai được rõ! Trần Dũng hãy xem lại lòng bàn chân của con đi!

Dũng vội cởi giầy, vớ, soi nến xem lòng bàn chân mình. Thật ngoài sức tưởng tượng! Lòng bàn chân phải có chữ Trần, chân trái có chữ Dũng, mờ mờ nét chàm xanh! Từ thuở bé đến giờ chàng trai chưa khi nào để ý thấy, vì chúng cũng hơi giống các nét chỉ ngang dọc thường có!

- Thầy con để di vật trong tay! Chỉ riêng con mới được nhận! Chuyện bí mật liên quan đến... chứng bệnh đau ngực di truyền của giòng họ Trần ta!

Nghe mẹ nói, Trần Dũng vội ngó kỹ thi hài phụ thân, lúc đó mới nhận thấy hai bàn tay ông vẫn nắm chặt, không ai gỡ nổi!

Chàng trai bàng hoàng kinh dị lặng đi, hồi lâu mới run giọng khấn:

- Nếu con là tằng tổ phụ đầu thai, xin cho nhận di vật.

Lạ thay! Dũng vừa chạm, tay ông cụ đã mềm như bún. Bàn tay trái ông có một mảnh giấy gấp nhỏ, nét chữ thảo đã run hẳn:

“Di vật tổ phụ để trong hộp “sắc". Chỉ mình Trần Dũng mới được lấy chìa khóa mở hộp đó. Xin tha tội đứa cháu nội bất hiếu đã có lúc định quên di ngôn tổ phụ”.

Chàng trai cúi đầu, cầm lấy chùm chìa khóa rồi một mình bước sang gian phòng thờ.

Ánh nến vật vờ úa vàng trên bàn thờ. Trần Dũng nhìn dãy bát hương, bài vị, thần chú xếp đặt trên đó, bỗng giật mình đọc thấy hai chữ “Trần Dũng" trên bài vị tằng tổ phụ! Sau bài vị có đặt một hộp “sắc" dài chạm trổ, sơn son thiếp vàng.

Dũng mang xuống đặt lên chiếc bàn độc thấp, lựa chìa khóa mở ra. Trong hộp đầy “sắc" vua phong. Dưới đáy còn một tầng kín, mở ra thấy có một khẩu súng lục cổ, một thanh gươm, một chiếc tù và bằng sừng linh dương, một tấm họa đồ đặc biệt và một cuốn sách nhỏ, bìa bằng da báo gấm, ngoài có tấm biển vàng khắc hàng chữ:

“Tĩnh Biên phó sứ Trần Dũng di thư”.

Bồi hồi, chàng trai mở sách ra. Trang đầu có mấy hàng chữ Hán lớn, viết lối chân phương:

"Cái văn: phụ tác tử thừa, thử chi vị kế, bất cải ư tổ tông chi đạo, khả vị hiếu hĩ” (Thường nghe: Cha làm con theo đó là nối, không đổi đạo tổ tiên, ấy là hiếu).

Các trang sau viết theo lối chữ Nôm thảo coi rất hoa mỹ, tỏ rõ tay bút tài hoa khác người:

“Chúc thư lập nguyện của Trần Dũng để lại cho con cháu, chi phái trực hệ giòng Trần ta. Ta cầm bút thảo những dòng này khi lên cơn đau tức ngực, linh cảm sắp gần đất xa trời, và biết chắc là chứng bệnh quái gở này sẽ thành bệnh di truyền trong chi phái nhà ta. Lỗi tại ta hay tại số mệnh?

Ta sinh ra trong cửa tướng, từ nhỏ chỉ biết phòng văn, trường võ, lớn lên xông pha trăm trận, chỉ biết vui với mũi tên, hòn đạn.

Nhưng gặp hồi vận nước suy vi, quan hủ quan tham đầy cõi, đến nỗi để mất nhân tâm hơn dị tịch, ta biết dẫu có lầy gan nát óc, dày công hãn mã cũng khó mong xoay lại nước cờ. Tuy vậy, đã làm tướng không lẽ cúi đầu khuất phục? Ta đánh trận suốt Bắc, Trung, Nam; đương thời đã sống dưới cờ Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết, Ông Ích Khiêm, cùng đánh quân Tây Dương, đánh giặc Cờ Vàng, Cờ Trắng. Và hồi cùng ông Thuyết đánh Cờ Vàng, tháng tám năm Ất Hợi (1875), trong trận đất Vĩnh Tường, chính ta đã bắn què Hoàng Sùng Anh và bắt sống y!

Ta lại quen thân với tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc và con nuôi Lưu là Woòng Nhì.Ta thường được cử hợp binh triều đình với quân Cờ Đen đánh Tây Dương. Ngày tướng Cờ Đen Bá Dương bắt sống Henri Rivière tại Cầu Giấy, ta cùng Lưu nằm miệt Phùng bày kế.

Nhưng sau triều đình phải ký hòa ước với Tây Dương, sai người ra Bắc triệu các tướng về và báo cho Lưu Vĩnh Phúc biết. Lưu cứ đánh. Ta hợp với Lưu tiếp tục mở trận khắp các miền Sơn Tây, Phú Thọ, Tuyên Quang, lên tận Lào Cai...

Ngày kia Tây Dương tụ quân mạnh đánh tràn, chúng ta phải rút vào rừng. Một đêm ta cùng Woòng Nhì xuyên sơn sang miền Phong Sa Ly đánh địch, không ngờ lại bị địch phục chặn ngay tại biên thuỳ. Quân thua tứ tán, ta bị thương một mình một ngựa chạy bừa, tới miền ba biên giới bỗng lạc vào một cõi thần tiên của bà Chúa Ngàn. Cõi này không ai đến nổi, có núi Bạc, núi Vàng, có nguồn nước trường sinh. Bà Chúa Ngàn ngự trị đã nhiều thế kỷ nhờ nguồn nước lạ đó. Bà chữa thương cho ta, và như có tiền duyên nên vừa gặp, ta cùng bà đã yêu nhau tha thiết!

Nhưng ta còn vợ con, còn nghĩa vụ, nên nửa năm sau ta ngỏ ý đòi về thu xếp việc riêng, hẹn năm năm sẽ trở lại với nàng.

Nàng trao cho ta một bình nước, một cái sừng linh dương, nghẹn ngào bảo:

- Ai đã vào Ngàn này, uống nước ăn cơm, ngửi hương hoa đều có thể trường sinh. Tuy nhiên, nếu một ngày không có nước Ngàn sẽ thắt tim mà thác! Bình nước này chàng giữ cẩn thận, mỗi ngày uống một ngụm, lau mình một ngụm, đủ năm năm chàng trở lại, thiếp chờ. Chàng cứ an lòng lo việc đời, dẫu sao dời vật đổi, thiếp vẫn chờ. Dù hàng năm, hàng thế kỷ, đời đời! Kiếp này nếu chàng gặp tai biến, thiếp sẽ chờ kiếp sau, kiếp sau nữa! Hãy tới vùng tháp Cửu Thiên, thổi chiếc sừng linh dương, thiếp sẽ ra đón chàng. Xin chàng chớ phụ! Đừng để bệnh thắt tim thành bệnh lưu truyền cho con cháu! Ngoài đời còn loạn!

Ta cảm động đỡ lấy, cùng nàng ân ái biệt ly, khi tỉnh dậy đã thấy nằm trên tháp, mùi da thịt nàng còn ướp nồng ngực áo.

Ngựa buộc ngay chân tháp. Ta lên ngựa ra roi, xuyên lâm tìm về bản dinh Lưu Vĩnh Phúc. Lưu đã về Tuyên Quang. Ta lần về Tuyên, may gặp Woòng Nhì, Woòng đưa ta đi gặp cha nuôi. Chủ soái Cờ Đen, Đề đốc Nam triều đang nằm hút thuốc phiện. Trông ông già hẳn đi. Giọng Lưu thật bi hùng:

- Triều đình ký hoà ước nhận cuộc bảo hộ rồi! Tây Dương lại nhờ triều đình Mãn Thanh triệu Lưu này về trấn Đài Loan! Nhưng nhiều tướng không chịu! Tướng Tây mới đánh Sơn Tây, Hưng Hóa, sắp đánh Tuyên Quang! Hoàng Kế Viêm về Huế rồi! Lưu này đánh trận tại đây đã hai mươi năm, giờ vẫn giúp nước Nam! Tiên sinh tính sao?

Ta nắm tay Lưu cảm động, thâm tâm định sẽ trông vào núi Vàng, núi Bạc của bà Chúa Ngàn, lấy tiền mộ quân cùng Lưu hợp chiến

Ta bèn lẻn về Sơn Tây đem gia đình lên Tuyên Quang.

Ngay hôm sau Tây tiên đánh Tuyên Quang. Ta cùng quân Cờ Đen vừa chặn vừa rút, nào ngờ lúc đã đóng yên trong rừng, xem lại mới hay bình nước Ngàn đã bị đạn xuyên thủng lỗ chỗ, nước quí đã cạn từ lâu.

Hỡi ôi! Nghiệt số! Mắt ta đã hoa, tim đang thắt! Không! Ta sẽ trở lại gặp nàng! Ta viết tên vào lòng bàn chân vì sợ sẽ quên tiền kiếp mình! Hỡi con cháu! Nếu đẻ ra kẻ có tên dưới chân, là ta đó! Hãy trao chúc thư cho Trần Dũng hậu thân! Trần Dũng! Hãy tìm tới xứ Ngàn, dẫu đã lâu hàng bao thế kỷ! Nàng đang chờ cố nhân! Giòng họ ta sẽ khỏi bệnh di truyền! Nếu không tin, ngươi có quyền đốt hết di thư, di vật, sống đời cháu chắt, coi tất cả chỉ là cơn mê sảng của tiền nhân! Nếu đi, hãy chờ năm Tý, năm Trần Dũng về trần, vì ta lập nguyện sẽ trở lại xứ Ngàn vào năm Tý!".

Chàng tuổi trẻ gấp chúc thư lại, lòng bàng hoàng như đang trong cõi mộng. Rất lâu chàng khẽ thở dài, cúi xem lại lòng bàn chân rồi nhìn lên tấm bài vị cụ tam đại, lẩm bẩm:

- Chân có chữ, sinh năm Tý, ta là hậu thân tằng tổ phụ! Giờ ta mới hiểu vì sao từ ngày có trí khôn ta hay buồn mang mang như nhớ về dĩ vãng xa xăm...!

***

Ba biên giới...

Miền giao địa Việt - Trung - Lào...

Theo họa đồ của cụ tam đại Trần Dũng Tĩnh Biên phó sứ, chàng trai họ Trần cùng Hoàng Đạt, thêm Ngọc Bích - người yêu của họ Hoàng, lần mò khắp rừng thẳm khe sâu, lang thang mãi để tìm tháp Cửu Thiên. Nhưng đã gần tuần lễ trôi qua vẫn không ra manh mối. Hỏi thổ dân, ai cũng sợ sệt lắc đầu, bảo đấy là “tháp ma tháp quỉ", nếu ai trông thấy sẽ quên đường về.

Một ông lão ngoài bảy mươi tuổi ở vùng Apuchải cho biết: đã hơn thế kỷ nay chưa ai gặp được tháp đó!

Cả ba người trẻ tuổi không nản chí, cứ đi. Rồi một buổi hoàng hôn ba mươi tết, ba người đến một vùng hoang tịch không vết chân người. Vừa lên tới một đỉnh đèo cao, bỗng thấy hình ngọn tháp kỳ dị đằng xa, mây khói mịt mù.

- Kia rồi!

Cả bọn bật kêu sửng sốt, mừng rỡ, lập tức giục ngựa tiến tới. Đường mòn đã bị xóa nhoà tự bao giờ, may sao xuống chân đèo lại gặp một dòng suối chảy về hướng tháp. Trông tưởng gần, ngờ đâu vừa phát dây leo, cỏ lau, vừa đi, mãi tới khi trời tối mịt mới đến chân tháp. Trời đêm đen như mực. Gió thổi vi vu, khí lạnh ghê người. Ba con ngựa sợ hãi cứ hí loạn chực phá chạy, bọn Trần Dũng phải vất vả mới ghìm lại được.

Hoàng Đạt chiếu đèn rê ngược từ dưới lên. Tháp bằng đá xanh, rêu phong phủ đầy dây leo chằng chịt lên tận tầng thứ ba. Có giống leo tận ngọn, lá vật vờ.

Ngọc Bích rùng mình bảo hai chàng:

- Này! Sao trông có vẻ nặng nề âm khí lạ!

Dũng, Đạt đưa mắt nhìn nhau, cùng chung ý nghĩ như nàng.

- Hừ! Bất kể thế nào, đã đến thì phải vào thôi!

Chàng võ sư trao đèn cho người yêu, rút soạt lưỡi dao rừng phát quang lối đi dắt ngựa lên trước.

Lát sau, một bếp lửa cháy rực được nhóm lên giữa nền tháp, xua bớt lãnh khí.

Trần Dũng xem đồng hồ, vẻ tư lự:

- Hơn mười giờ rồi! Chỉ còn một lát nữa là sang năm Tý... năm "Người” lập nguyện trở lại xứ ngàn!

- Tớ hiểu! Nhưng giờ này hãy còn sớm, ăn uống cho lại sức cái đã! Cố nhân trùng phùng, chớ để nàng thấy mặt mũi tình lang ủ dột vì... đói bụng!

Đạt gượng bông đùa, che dấu nỗi xúc động.

Ăn uống xong đã quá mười một giờ đêm, Trần Dũng chừng nóng lòng, đứng vụt lên.

- Tớ ra ngoài chuẩn bị trước! Sắp đến giờ lên tháp!

Chàng quơ bọc hành trang bước ra liền. Mươi phút đã thấy một viên võ tướng thời cổ mặc giáp, đội mũ trụ, đeo súng, tay xách gươm đi vào.

Dù đã biết trước, Hoàng Đạt, Ngọc Bích vẫn không khỏi giật mình, tưởng như một hình bóng vừa từ dĩ vãng hiện về.

- Ồ! Dũng!

Trần Dũng mặc võ phục của cụ tam đại, mặt lộ vẻ khắc khoải, bồn chồn đi tới đi lui trong tháp.

- Hai bạn ở dưới này, tớ lên trên xem sao!

- Khoan! Để bọn này cùng lên! Tháp hoang lâu năm e có lắm độc xà, độc vật!

Đạt, Bích cùng đứng lên. Chàng võ sư rút khẩu pạc-hoọc, lăm lăm đề phòng bất trắc, đoạn chiếu đèn đi trước mở đường.

Vừa lên tầng hai, bỗng "rào” một tiếng, dây leo xao động, một con trăn gió cực lớn phóng vụt tới. Không chậm một giây, Đạt vẩy súng.

- Đoàng!

Con trăn rớt xuống nền đá giãy dụa, quật đuôi rầm rầm. Ngay lúc đó lại một con nữa từ đâu quặng vèo tới, ngay đầu gối. Đạt vội quay đèn, súng định nổ tiếp nhưng đầu trăn đã chạm ống quần.

Phập!

Đầu trăn rụng "bộp". Trần Dũng từ phía sau vọt lên theo đường gươm. Ba người lên tầng ba, suýt bị rắn rết cắn. Lên tầng bốn, năm suýt bị ong độc đốt. Thang đá rêu trơn khiến Ngọc Bích trượt chân mấy lần suýt ngã. Mấy phút sau cả bọn tới tầng chín cao chót vót.

Khí lạnh thấu xương, gió vù vù, tháp hoang quạnh quẽ, trên có treo một quả chuông, đầy bụi, rêu.

Ba người bước ra lan can nhìn về hướng Tây Bắc. Dãy núi đá sừng sững in vào nền trời, âm u như quái tượng biên khu đêm hoang tịch. Trần Dũng càng lúc càng thêm khắc khoải, chốc chốc lại xem đồng hồ.

Mười hai giờ. Giao thừa rồi. Đã sang năm Tý.

Chàng trai họ Trần xúc động, thở mạnh liền mấy hơi đoạn từ từ đưa chiếc sừng linh dương lên miệng thổi.

Trong khoảnh khắc, Hoàng Đạt, Ngọc Bích cùng lặng người trước âm sừng phát ra vang lên, bay vãi trong không gian. Trần Dũng mới tập thổi tù và được ít ngày, nhưng âm thanh nghe nổi chìm thê lương lạ lùng, lan truyền xa hút...

Dứt ba hồi, vẫn chẳng thấy gì lạ! Dũng thổi ba hồi nữa, vẫn im. Nhưng vừa dứt hồi thứ chín, thì lạ thay, từ dãy núi cao ngất âm u kia bỗng có tiếng tù và linh dương nổi lên, vọng tới tháp đúng chín hồi rền rĩ thê lương, nghe như vọng âm chậm của tiếng tù và Trần Dũng vừa thổi.

Cả bọn nín thở.

Bỗng nghe dưới chân tháp xôn xao rồi tiếng người, tiếng ngựa, có tiếng đàn bà thánh thót đưa lên:

- Trần Dũng Tĩnh Biên phó sứ đã tới đó sao? Trời ơi! Thiếp đợi chàng đã gần thế kỷ!

Cả ba cùng giật mình sửng sốt, Trần Dũng vùng phóng tới đầu cầu thang. Ánh đèn lồng cổ kính dập dềnh huyền ảo, một đám gái hầu phò một nữ lang mặc lối các cô nàng sơn cước đi lên, gót sen thoăn thoắt, hương thơm ngạt ngào. Nữ lang lên hẳn trên, đẹp như tiên giáng trần. Nàng nhìn Trần Dũng thỏ thẻ:

- Lang quân! Sao chàng tới chậm thế? Nơi Ngàn thiêng thiếp đếm từng khắc chờ mong! Ôi! Chàng vẫn trẻ như xưa!

Trần Dũng có vẻ lúng túng:

- Ngày ấy"Người" về xuôi không may lâm trận thủng bình nước quí. Mãi đến đời cháu 3 đời Trần Dũng này mới được biết tiền thân!

Nước mắt chảy thành giòng, nữ lang bước tới gục vào ngực Dũng:

- Hãy theo thiếp vào Ngàn... nối lại duyên xưa.

Như mê, Trần Dũng để mặc nàng dắt đi. Bất thần Hoàng Đạt vụt lại, quát dữ:

- Yêu nghiệt! Không được hại bạn ta!

Cả hai cùng quay mặt lại, nữ lang cau mày liễu:

- Chàng này là ai, sao dữ thế?

Dũng có vẻ không vui:

- Đạt! Điên sao? Y hồi tù và rứt, nàng ra đón! Đây là Bà Chúa Ngàn!

Đạt lạnh lùng:

- Tới nhanh như gió thoảng, đâu phải người trần! Nếu là tiên tất không sợ súng ống!

Dứt lời chàng trai họ Hoàng chĩa pạc-hoọc nổ luôn một phát giữa ngực nữ lang. Nàng vẫn đứng yên, mỉm cười. Đạt lại rút soạt ra một thanh gươm gỗ quấn chỉ ngũ sắc quát:

- Đây là gươm lệnh của thầy phù thủy, nếu chịu nổi, không phải yêu ma!

Véo! Gươm gỗ chém lia, nữ lang buông Dũng nhảy vụt xuống thang. Đạt phóng gươm theo. Rào! Một cơn gió lạnh, cả lũ gái hầu cũng biến theo ánh đèn lồng. Có tiếng rú mơ hồ. Đạt chiếu đèn bấm đuổi theo. Thanh gươm gỗ cắm ngay kẽ cửa sổ chân thang tầng tám, thành cửa sổ có mấy giọt máu đen như mực. Đạt lấy gươm đuổi theo nữa, Trần Dũng, Ngọc Bích cũng theo sát.

Nhưng xuống đến tầng dưới cùng vẫn không thấy gì, ngó ra ngoài chỉ có mấy con ngựa buộc đó. Ba người đang rê đèn bấm quanh chân tháp, bỗng lại nghe tiếng đàn sáo véo von lẫn tiếng nhạc ngựa khua, rồi ánh lửa bập bùng từ xa chuyển nhanh tới. Có tiếng đàn bà truyền lanh lảnh như khánh vàng:

- Mau lên! Không khéo nó đã hại chàng rồi! Trời ơi!

Một đám hàng trăm thổ dân, gươm đao sáng lòa theo dòng đuốc kéo tới chân tháp. Có tiếng hô lớn:

- Bẩm Chúa Ngàn! Có ba người! Ai là Trần tướng quân?

Đám đông dàn hàng, để hở một đường trống. Một bọn gái mặc theo lối Thái Đen phò một bà nàng mặc lối Thái Trắng, ngoài khoác áo choàng, cưỡi con ngựa bạch phi lên, dừng rập bên thềm tháp. Vừa thấy Trần Dũng, nàng kêu thánh thót:

- Trời! Lang quân đây! Thiếp đợi chàng đã ngót trăm năm, chàng ơi!

Dũng, Đạt, Ngọc Bích cùng nhìn sững. Bà Chúa trông chỉ trạc hai mươi, đẹp tuyệt trần, từ mặt mũi, dáng vẻ toát ra vẻ đài các quí tộc, phảng phất nét uy nghi lạ thường.

Trần Dũng chưa kịp lên tiếng, Hoàng Đạt đã đâm thử gươm son vào tay nàng. Nàng vẫn ngồi yên, vẻ ngạc nhiên, rồi như chợt hiểu:

- A, phải con tinh tháp Cửu Thiên vừa hiện hình? Công tử tưởng ta là gái hồ ly ư?

Đạt thu gươm, lộ vẻ kinh ngạc:

- Trời! Tiền nhân để chúc thư không phải vì mê sảng! Bà Chúa Ngàn thật đây ư?

Chúa Ngàn giơ tay, gái hầu đỡ xuống ngựa. Nàng tiến lên thềm nhìn Trần Dũng, nước mắt ròng ròng:

- Trần tướng quân! Khi Tĩnh Biên phó sứ chàng về xuôi, quá 5 năm không trở lại, thiếp biết chàng đã lìa đời vì hết nước quí! Nhiều lần thiếp định quyên sinh, nhưng nhớ lại lời ước hẹn nên cố chờ... đến nay!

Dũng bỗng nghẹn ngào, ngùi giọng:

- Trần Dũng xưa lâm trận, bị thủng bình cạn nước mãi đến kiếp này mới nhận được tiền thân nhờ xưa có viết chữ vào lòng bàn chân làm chứng tích! Mấy đời cách biệt, may giờ được gặp lại nàng... trong kiếp này.

Hai người ôm chầm lấy nhau. Chàng trai họ Trần bàng hoàng trong vòng tay người đẹp tiên triều. Nàng thỏ thẻ:

- Lang quân giống xưa như đúc một khuôn, chỉ khác kiếp này chàng trẻ hơn xưa khi gặp thiếp!

Hoàng Đạt buột miệng:

- Dũng có râu quai nón, nếu để chắc cũng giống hệt... bức vẽ truyền thần cụ tam đại.

Chàng lại nhìn bà Chúa Ngàn lẩm bẩm:

- Có thể nào người ta trẻ mãi vậy chăng?

Chúa Ngàn hơi mỉm cười, giải thích:

- Trong Ngàn có nguồn nước từ ruột quả đất phát ra, tụ kết tinh hoa sinh khí ngũ hành, uống vào, tắm rửa sẽ bồi dưỡng thân thể như thuốc trường sinh bất lão. Tuy nhiên, ai đã dùng nước đó, tạng phủ đổi khác, một ngày không dùng sẽ thắt tim mà thác! Xưa Tĩnh Biên phó sứ Trần Dũng qua đời cũng vì nguyên nhân đó!

Trần Dũng giới thiệu Hoàng Đạt, Ngọc Bích với Bà Chúa Ngàn, lại đưa nàng vào tháp lấy di vật cho xem, cả bình nước thủng năm xưa. Chúa Ngàn âu yếm khoác tay Dũng, bảo:

- Thôi, xin rước tất cả vào Ngàn! Trời cũng sắp sáng rồi, về còn chuẩn bị tiệc mừng!

Đạt, Bích cùng trao đổi một cái nhìn ý nghĩa. Cả hai cùng cảm thấy ngậm ngùi nao nao trước phút chia tay với người bạn thân thiết, khó còn dịp tái ngộ.

Trần Dũng cũng đồng tâm trạng, và dẫu đã hiểu ý đôi bạn từ trước, chàng vẫn cố khuyên nhủ:

- Hãy cùng Dũng này vào Ngàn thiêng sống kiếp trường sinh tránh luật hủy diệt tàn nhẫn của thời gian. Nghe mình đi, hai bạn!

- Thiếp và lang quân đạt lời nguyền cũng nhờ vợ chồng công tử giúp đỡ, ân tình này cả xứ Ngàn đời đời ghi tạc. Mong Hoàng công tử với phu nhân vào Ngàn cùng chung hưởng hạnh phúc, xa lánh thế lụy phù sinh.

Bà Chúa Ngàn khẩn khoản mời Đạt, Bích. Song cả hai một mực chối từ xin kiếu. Chàng võ sư họ Hoàng cảm khái nắm tay người bạn từng gắn bó sâu đậm trong đời, giọng chùng hẳn xuống, buồn mang mang như hơi gió biên thùy:

- Hợp rồi tan, tan rồi lại hợp...! Trần Dũng giờ đã thỏa nguyện kiếp xưa, sum họp với người yêu. Bọn mình được chứng kiến cảnh đoàn tụ của bằng hữu, thế là đủ! Hai vị vun đắp một tình yêu bất diệt trong cõi bất tử, mình với Ngọc Bích cũng gắng tạo dựng một hạnh phúc bất biến giữa cõi đời hữu hạn! Ai có phận nấy, hãy chấp nhận và xem những gì đã qua giữa chúng ta như một kỷ niệm đẹp!

Đạt, Bích tiễn đôi bạn tình truyền kiếp lên ngựa. Trần Dũng vẻ quyến luyến, trao chiếc sừng linh dương cho Đạt dặn dò:

- Mỗi năm, vào đêm trừ tịch, bọn mình sẽ chờ nghe tiếng tù và thổi đi từ tháp này để ra đón hai bạn! Hãy giữ lấy nó, mai sau có khi dùng đến!

Hoàng Đạt cầm chiếc sừng, mỉm cười:

- Mình giữ làm kỷ niệm, nhưng bạn đừng chờ! Thôi, hai vị hãy lên đường!

Tiếng đàn sáo dặt dìu nổi lên, đám gái hầu tùy tùng phò Bà Chúa Ngàn cùng Trần Dũng đi xa dần... Ngọc Bích, Hoàng Đạt đứng lặng trông theo. Chàng võ sư bỗng đưa tù và lên miệng thổi một hơi dài. Âm sừng linh dương bay vãi theo hơi gió, nổi chìm ngân nga như đuổi theo tiếng nhạc vào Ngàn…

.

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: hoi_Ls - Kiến thức Ngày nay
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 14 tháng 3 năm 2022