Vòng Tay Người Khác

đào hiếu

Chương 1

Cuộc triển lãm kéo dài đến ngày thứ năm thì có một người khách say rượu đến, đòi gặp họa sĩ. Nhưng hôm đó Duy không có mặt ở phòng tranh, thế là người khách gây sự với nhân viên quản lý, ông ta cho rằng họa sĩ Duy sợ nên lánh mặt. Ông làm náo loạn cả phòng tranh và cuối cùng chạy đến gỡ bức HOA HUỆ định mang đi. Các nhân viên quản lý ngăn ông lại. Một cuộc xô xát nhỏ xảy ra và người ta phải gọi điện cho công an, lúc ấy người khách say rượu mới bỏ đi.

Chiều hôm ấy Duy đến phòng tranh của mình đem bức HOA HUỆ về nhà cất rồi đến bệnh viện. Nhưng khi lên lầu, anh đột ngột dừng lại vì thấy người khách say rượu hồi sáng đang ngồi trên chiếc ghế dài.

Duy xuống thang lầu, ra ngồi nơi căn-tin của bệnh viện, gọi một ly cà phê đen.

Chỗ anh ngồi khuất sau một cây kiểng, từ đó anh có thể quan sát lối đi dẫn đến cầu thang. Anh hút thuốc lá và chờ.

Hơn mười một giờ, người khách say rượu bước xuống thang lầu, vẻ mặt đăm chiêu, mệt mỏi. Duy chờ cho người ấy ra cổng bệnh viện rồi mới trả tiền cà phê và lên lầu.

- Tôi muốn thăm bệnh nhân Trần Thị Huệ.

- Nhập viện ngày nào?

- Chiều hôm qua.

Duy theo dõi ngón tay cô y tá. Ngón tay ấy vạch một đường dài theo trang giấy.

- Phòng hậu phẫu. Nhưng ông không được vào đâu.

- Tôi muốn biết tình trạng của bệnh nhân.

- Ông đến phòng cuối cùng, bên phải.

Duy đi dọc hành lang, dừng lại trước một căn phòng sáng choang ánh đèn, anh nhắc lại yêu cầu của mình, người y tá trực ở đó nói:

- Chưa thăm được đâu. Bà ấy còn mê man.

- Nhưng có hề gì không, thưa chị?

Một cô y tá khác vừa đến, và họ nói chuyện với nhau, bỏ Duy đứng một mình. Duy lớ ngớ một lúc, rồi chợt nhìn thấy phòng bên cạnh có tấm bảng đề PHÒNG HẬU PHẪU anh bước đến gần, nhìn qua khe cửa. Nạn nhân nằm trên chiếc giường sắt, đầu quay về phía Duy, mình đắp một chiếc drap trắng rất mới phủ kín từ cổ xuống chân.

Tuy nhiên Duy cũng nhận ra Huệ nhờ mái tóc dày quen thuộc. Huệ nằm bất động, anh cố tìm một dấu hiệu nào đó chứng tỏ Huệ còn sống nhưng vì nhìn qua khe cửa nên không thể quan sát kỹ được. Duy ngồi xuống chiếc ghế dài, tựa lưng vào tường, nhắm mắt lại.

Những ngày sau đó phòng tranh rất đông khách. Nhưng khoảng tường chỗ treo bức Hoa Huệ đã bị bỏ trống. Và người ta đứng nhìn cái khoảng trống ấy. Tường vôi trắng. Một cái đinh. Một chút mạng nhện mảnh như sợi tơ.

Có người nào đó nói:

- Hôm khai mạc tôi có xem bức tranh ấy. Nhân vật trong tranh là một cô gái mặc áo lụa trắng. Đó là vợ cái ông say rượu đến quậy hôm trước.

- Vì sao ông ta làm rùm beng vậy?

- Chắc là chuyện ghen tuông.

Một người khác hỏi:

- Họa sĩ đâu?

Lúc ấy Duy đang ngồi ở phòng riêng của mình trên lầu. Anh khóa cửa phòng, không tiếp ai, không nói năng gì cả. Mấy hôm nay anh không đến bệnh viện được vì người đàn ông ấy và gia đình của ông ta có mặt ở đó thường xuyên. Có một lần anh cũng liều đến và suýt đụng độ. Thực ra thì anh cũng không ngại đụng độ nhưng anh muốn giữ danh dự cho Huệ. Anh chỉ biết một chi tiết rất đơn giản là Huệ đã tỉnh lại. Nhưng điều đó vẫn không làm anh bớt lo.

Duy nốc cạn chai rượu và ném cái vỏ lăn lóc dưới sàn nhà.

Trong khi ấy nơi phòng tranh câu chuyện vẫn sôi nổi:

- Bức tranh ấy bán với giá bao nhiêu vậy?

- Có bán đâu, một người khác nói, người chồng đã đến và lấy đi rồi.

- Làm gì có chuyện đó. Chính họa sĩ đã đem cất.

- Theo tôi, đây chỉ là một trò quảng cáo.

Một người đàn ông cao lớn, ăn mặc có vẻ phô trương hơn là sang trọng, rút thuốc lá mời những người đứng chung quanh, cười rồi nói:

- Tôi có quen với cô gái trong tranh. Đó là một người đàn bà đa tình. Vụ rắc rối vừa rồi ở đây chỉ mới là màn đầu của bi kịch. Rồi quý vị sẽ xem những màn tiếp theo. Nhưng bây giờ tôi muốn gặp họa sĩ. Tôi có quen với anh ta. Làm thế nào để gặp?

Một người đàn bà trạc năm mươi ngoài, tóc muối tiêu, chào ông khách và nói:

- Rất tiếc, hôm nay họa sĩ Duy mệt, không tiếp khách được.

- Bà là gì ở đây?

Người đàn bà đứng tuổi có vẻ khó chịu về cách hỏi của khách nhưng vẫn nhỏ nhẹ:

- Tôi quản lý phòng tranh này. Cần gì ông có thể trao đổi với tôi được, kể cả việc ký kết các hợp đồng.

- Tôi chỉ muốn được gặp họa sĩ. Cứ nói có Đặng Tài cần gặp là ông ấy tiếp ngay.

- Tôi đã thưa với ông là hôm nay anh Duy không tiếp ai cả.

Người khách định bỏ đi, rồi lại nói:

- Hôm trước tôi đã gặp họa sĩ và đã trả đến hai triệu rưỡi nhưng anh ta không bán. Đó là trước khi có vụ náo loạn ở đây, bây giờ thì đến năm triệu chưa chắc hắn đã bán. Hắn là một tay lõi đời chứ không vừa. Nhưng tôi sẽ mua được.

Đến trưa, khách thưa dần, chỉ còn năm sáu người đứng tuổi. Họ xem tranh rất kỹ, có người dùng cả kính lúp để xem từng ô vuông của chất liệu sơn dầu.

Đa số tranh lấy đề tài phong cảnh Tây Nguyên. Núi đồi, thung lũng được họa sĩ thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng dù gần dù xa, cảnh vật bao giờ cũng mang cái vẻ mênh mông, hiu hắt. Những bức như TRĂNG BÊN ĐỒI TRÀ, THUNG LŨNG CỎ TRANH, SƯƠNG MÙ… mang dấu vết của trường phái lãng mạn châu Âu. Nhưng bàng bạc trong tranh Duy là cái vẻ hoang dã, nhất là những tranh vẽ thiếu nữ Tây Nguyên khỏa thân.

Tuy nhiên bức HOA HUỆ lại có vẻ đẹp khác hẳn. Anh vẫn dùng sơn dầu nhưng tranh ấy cứ như tranh lụa. Cái màu tím ngát của tóc, của môi, của mắt, của đôi vú nhỏ thấp thoáng sau lớp áo lụa trắng cứ như muốn tan đi trong sắc hoa cà bàng bạc mênh mông của mây núi, của khoảng trời nhạt nhòa phía sau. Đó là bức tranh duy nhất không ghi giá bán trong số năm mươi bảy bức được đem trưng bày ở phòng tranh này.

Vào khoảng mười phút trước giờ đóng cửa, có một cậu thanh niên trạc mười sáu mười bảy tuổi rụt rè bước vào phòng tranh. Đó là người khách cuối cùng. Cậu ta cũng không biết làm gì hơn là đứng lặng nhìn cái khoảng trống nơi bức tranh đã bị lấy đi.

Người đàn bà đứng tuổi đến gần cậu ta và nhắc:

- Hết giờ rồi. Chiều em đến.

Cậu ta quay lại, hai mắt đỏ hoe. Đôi mắt ấy làm người đàn bà ngạc nhiên, bà chưa kịp nói gì thêm thì cậu ta đã quỳ xuống dưới chân bà và nói:

- Bà ơi! Cháu yêu chị Huệ lắm. Chị ấy chết mất.

Rồi cậu òa khóc. Mọp xuống đất mà khóc nức nở.

Duy hoàn toàn không thấy đói dù suốt ngày anh không ăn gì cả. Lúc xế chiều anh có tạt vào một quán phở gọi một tô đặc biệt nhưng chỉ húp được một vài muỗng nước rồi đứng dậy trả tiền đi về.

Tám giờ tối anh nhờ thằng bé hàng xóm mua mấy chai bia và đóng cửa phòng lại, tắt đèn. Anh ngồi uống bia trong tối. Căn phòng tối đến độ anh phải mò mẫm mới có thể rót bia được vào đúng miệng ly, nhưng bia đầy lúc nào anh không biết, bọt bia trào ra tay, đổ xuống sàn nhà. Anh mò tìm mặt bàn để đặt chai bia lên rồi nốc cạn ly bia đang sủi tăm.

Những lần sau anh quen tay hơn. Nhờ ánh lửa trên đóm thuốc lá anh rót bia chính xác hơn và ngồi nhấm nháp nỗi buồn của mình. Bóng tối như cái vực sâu, như chiếc mũ tàng hình anh đội lên đầu. Thế là không còn gì cả.Taychân, mặt mũi biến mất. Quần áo cũng biến mất. Chỉ còn lại thế giới của hoài niệm. Chúng hiện ra trong trí anh tràn đầy ánh sáng. Được vẽ vời bởi men rượu, chúng bay lên cao, chao nghiêng đôi cánh tưởng tượng, hóa thân thành vầng trăng.

Duy đi một mình trong đêm khuya. Cái dốc dài thăm thẳm lẫn khuất trong sương mù. Mặt trăng cũng lẫn khuất trong sương mù. Căn nhà anh ở giữa lưng chừng dốc, ẩn hiện trong rừng chuối. Anh đi ngược lên dốc và thấy trăng đang đợi anh phía sau. Lúc ấy anh bị chôn vùi trong sương mù, chỉ thấy lờ mờ chân tay quần áo mình, chỉ nghe tiếng bước chân đều đều và tiếng con chim gi kêu trong núi.

Lần đó anh đi đâu giữa khuya khoắt?

Lúc trở về thì sương đã tan.

Cơn mưa khuya đến bất chợt. Anh ngồi thu mình trong tối hút thuốc và lắng nghe nó. Nó không đều đặn, không đơn điệu. Nó lộp bộp trên tàu lá chuối, rào rào trên con đường đất đỏ và xào xạc trên mái lá. Nó làm dậy lên bao tiếng động khác của đêm, nhất là tiếng côn trùng, tiếng ếch nhái, ễnh ương và tiếng vỗ cánh của những con cú mèo.

Mưa rừng vực dậy cả một thế giới hoang dã, nó sinh động, dữ dội và man rợ. Sau đó là tiếng gầm thét của mãnh thú vang lại từ dãy núi xa. Mặt trăng lại hiện lên trên đỉnh đồi, vàng vọt, cũ kỹ.

Duy uống cạn chỗ bia còn lại trong ly và khui chai khác. Anh đã say, bụng đói cồn cào nhưng nỗi buồn thì không rời anh, nó chỉ tan loãng mà không mất. Anh buồn ngủ. Anh muốn ngủ một giấc thật dài. Ước gì đến sáng hôm sau lại thấy mình đang nằm trong ngôi nhà sàn ngày trước, lại nhìn thấy vạt cỏ xanh non trước nhà trải dài đến tận đồi trà chập chùng. Ta sống trở lại những ngày xa xưa ấy, làm người họa sĩ nghèo trên cao nguyên, sống đơn độc trong ngôi nhà sàn nhỏ giữa dốc. Lúc ấy ta chưa biết Huệ. Lúc ấy Huệ ở đâu? Huệ kể rằng trong những năm ấy máy bay Mỹ ném bom miền Bắc. Huệ đi sơ tán ở vùng quê, đầu đội cái mũ rơm rộng vành.

- Tại sao em phải đội cái mũ ấy?

- Để chống bom bi.

- Thế còn những con cò ở phố Lò Đúc của em?

Huệ cười:

- Mỗi lần tụi em đi ngang qua đó là phải đi nhanh.

- Sao vậy?

- Anh biết không, đường thì hẹp mà hai bên thì cây cao um tùm. Cò làm tổ đầy trên đó, sợ nó "bỏ bom" lên đầu, tụi em đặt tên vùng đó là Bang Cò Ỉa, cũng như bên Mỹ có bang Texas vậy.

Lúc ấy Huệ chỉ là một cô học trò nhỏ hồn nhiên mà mình thì đã rã rời. Một thằng lao công đào binh bị đưa từ đồng bằng lên Tây Nguyên. Một thằng tù họa sĩ. Một thằng tù bị giam lỏng giữa dốc núi.

Cánh cửa phòng sịch mở và đèn bật sáng. Duy che mặt cho đỡ chói và ngồi bật dậy.

Khách là một người đàn ông to béo ăn mặc sang trọng. Ông ta cười và kéo ghế ngồi một cách tự nhiên.

- Xin lỗi anh, ông ta nói, tôi đến hơi đường đột nhưng mong anh thông cảm. Anh nhận ra tôi không?

- Tôi không biết ông là ai?

- Tôi là Đặng Tài bạn của cô Huệ. Tôi đã gặp anh mấy lần rồi mà.

- Nhưng ông đến đây với mục đích gì?

Đặng Tài lấy thuốc lá ra mời Duy, nở một nụ cười thân thiện. Ông ta nói:

- Anh Duy à, anh đừng giận tôi nhé. Anh yêu Huệ, tôi cũng yêu Huệ. Tôi rất cần bức tranh ấy, anh để lại cho tôi nhé? Bởi vì tôi không thể vẽ được còn anh thì hoàn toàn có thể vẽ thêm nhiều bức khác nếu anh muốn. Tôi sẽ trả anh năm triệu đồng. Anh nghĩ sao?

Duy nốc cạn chỗ bia còn lại:

- Bức tranh ấy tôi không bán.

- Tại sao anh lại cố chấp như thế?

- Tôi không bán.

- Bảy triệu.

Duy tỉnh rượu. Anh ngồi thẳng dậy và nói:

- Anh sẽ không bao giờ mua được bức tranh này cũng như trước đây anh đã không bao giờ mua được Huệ.

- Anh mỉa mai tôi làm gì. Tuy tôi là một thương gia nhưng anh đừng tưởng rằng tôi mua bức tranh ấy để bán kiếm lời.

- Nhưng tôi biết anh không yêu Huệ đến độ phải bỏ ra bạc triệu để mua bức tranh. Anh cũng không phải là người yêu hội họa đến mức ấy. Vậy thì anh mua nó để làm gì?

Đặng Tài đứng lên, với điếu thuốc cháy trên môi, đi quanh căn phòng rồi bật cười:

- Tôi bỏ ra bảy triệu để mua bức tranh ấy để làm gì? Có lẽ vì tự ái. Vì trước đây tôi đã không dùng tiền để mua được Huệ nên bây giờ tôi quyết tâm mua một cái bóng của cô để tỏ rằng tôi vẫn có thể mua được. Thật là điên rồ. Nhưng cái ước muốn điên rồ ấy không lúc nào rời tôi. Nó bám lấy tôi, thách thức tôi.

Duy nói:

- Tôi hiểu rồi. Nhưng thôi, ông về đi. Tôi cần ngủ.

Đặng Tài ném mạnh tàn thuốc lá ra cửa sổ.

- Nhưng tôi vẫn tin một ngày nào đó tôi sẽ làm chủ bức tranh này.

Ông ta đứng im ngắm bức tranh hồi lâu rồi bỏ đi.

Duy cố gắng lắm mới bước lại gần cánh cửa phòng để gài cái chốt, nhưng bỗng dưng anh cảm thấy có một sức mạnh nào đó phía bên kia cánh cửa đang đẩy anh. Trong cơn say anh cố chống lại nó nhưng nó mạnh quá, nó xô ngã anh xuống sàn nhà.

Và một người đàn ông khác lại hiện ra.

Người đó là chồng của Huệ.

Ông ta đứng sững như một pho tượng đồng giữa căn phòng, còn Duy thì ngồi im trên chiếc ghế dựa. Sự im lặng kéo dài trong một phút. Người đàn ông rút trong túi xách ra một xấp tranh phác thảo chân dung vợ mình, trong đó có những bức khỏa thân, đưa ra trước mặt Duy.

- Tôi đã biết rõ mọi chuyện. Còn đây là lá thư hẹn tôi tìm được trong hộp nữ trang.

Duy lạnh lùng nói:

- Anh ngồi xuống đi, tôi không chối đâu. Bây giờ thì chẳng cần phải giấu giếm nữa. Tôi yêu Huệ. Và cô ấy cũng yêu tôi.

- Nhưng đó là trò đê tiện. Đây này, những bức phác thảo đây này.

Người chồng lấy từng tờ rời, xé làm đôi, lần lượt ném xuống đất, trước mặt Duy.

- Tôi sẽ truy tố anh trước pháp luật.

- Xin cứ truy tố.

Người chồng xoay người, chỉ lên bức HOA HUỆ treo trên tường:

- Tôi đến đây để lấy lại bức tranh này.

- Không đâu, đó là tác phẩm của tôi.

Người đàn ông trợn mắt nhìn Duy, mặt ông đỏ gay vì rượu. Ông nói:

- Tác phẩm à? Nhảm nhí. Đó là cái đồ tán gái. Cái đồ đê tiện.

- Vậy thì ông cần cái đồ đê tiện ấy để làm gì?

- Tôi cóc cần. Anh tưởng tôi đem nó về để thờ à? Nhưng tôi không muốn anh giữ một chút gì của vợ tôi. Tôi muốn xé nó ngay tại đây.

Duy bật dậy, đứng án ngữ trước tác phẩm của mình.

Người chồng tiến tới một cách hung hãn, ông có vẻ coi thường chàng họa sĩ mảnh khảnh, ông vung tay gạt mạnh chàng ta sang bên. Duy lảo đảo, vì anh đã say mèm. Tuy nhiên anh gượng dậy rất nhanh, chồm tới tóm lấy lưng áo của người nọ, giữ anh ta lại. Người chồng xoay người, đánh mạnh vào cổ tay Duy rồi đẩy Duy một cái thật mạnh khiến anh bắn vào tường. Duy chụp lấy một vỏ chai bia, đập đít rồi cầm cái cổ chai lởm chởm ấy tiến tới.

- Anh đụng tới bức tranh là tôi đâm liền, Duy nói.

Nhưng người chồng đã tiến tới một bước và giựt mạnh bức tranh xuống, khung gỗ lệch qua một bên. Duy sững sờ, cảm thấy như chính mình vừa bị đánh vào mặt. Anh lao tới, đâm một nhát, người đàn ông né qua bên nên nhát đâm ấy chạm vào cánh tay, máu tuôn ra xối xả. Người đàn ông điên tiết, ném bức tranh sang bên rồi lừ đừ tiến tới như một con gấu. Duy lùi dần. Đột nhiên người đàn ông vung chân phải lên và Duy ngã ngửa ra nền nhà. Anh cảm thấy cái thân thể đồ sộ kia đè lên người mình, hai đầu gối cứng như thép của anh ta chẹn lấy hai cánh tay Duy, hết cục cựa.

Duy kêu rú lên một tiếng khủng khiếp. Người đàn ông cầm một mảnh vỏ chai sắc cạnh. Trong cơn điên cuồng, ông ta xẻ nát khuôn mặt của kẻ tình địch. Duy chỉ rú lên được một tiếng nữa rồi ngất xỉu. Mặt nhầy nhụa máu.

Có tiếng chân người chạy hấp tấp lên cầu thang. Người chồng hối hả đứng dậy, leo qua cửa sổ biến mất trong bóng đêm. Không kịp mang theo bức tranh.

Những người hàng xóm đẩy cửa bước vào. Thấy Duy nằm trên vũng máu, họ vội chạy đi báo công an. Chỉ một lát sau công an hình sự đến. Sau khi làm xong những thủ tục về nghiệp vụ, họ đưa Duy đi cấp cứu.

Lúc nửa đêm, khi căn phòng của họa sĩ Duy đã được đóng cửa niêm phong cẩn thận thì từ dưới gầm giường, chui ra một cậu học trò trạc mười sáu mười bảy tuổi. Cậu ta đến nhặt bức tranh lên, rồi ôm nó, mở cửa sổ, leo ra và biến mất trong đêm tối.

Chương 1

Tiến >>


Nguồn: banvannghe.com
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 20 tháng 11 năm 2019