ĐẤT LỬA

nguyễn quang sáng

Chương I

*

Tiếng tù và từ đình làng túc lên “bun bun” dồi dội từng chập một, rồi buông một hơi dài lơ lửng trong mênh mông và vắng lặng.

Đường làng, nhà cửa, cụm xoài, và cả cánh đồng hoang đều im lìm, mê mệt dưới cái nắng chói chang của mùa mưa. Chỉ có dòng sông là còn hổn hển với những ngọn sóng lừ đừ, và ọp ẹp vỗ vào bờ. Và, từng bầy quạ đen, réo nhau “quang quác”, bay rảo theo ven sông tìm xác chết.

Sau hồi còi hiệu ấy, liền theo, tiếng ngựa chạy theo nước, kiệu, giòn giã gõ qua mặt đường. Người cưỡi ngựa lưng thẳng, mình mặc chiếc áo màu già dài phủ đến tận gối, sau ót tòn teng cái búi tóc, tay giữ cương, và tay phất ngọn cờ đuôi nheo màu già. Đó là người giữ chức trưởng ban trị sự đạo trong làng. Người làng vẫn quen gọi ông ta là Quản Dõng. Vì, hồi thời Pháp, ông ta làm hương quản. Ông ta dùng vó ngựa để đánh thức tín đồ.

Xóm Đìmh bắt đầu chộn rộn. Những tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, từ các nhà, các ngõ, các bóng mát, lần lượt kéo ra đường. Mỗi người có mỗi lối ăn mặc và trang bị khác nhau. Nhưng tất cả đều có chung một vẻ lạ kỳ. Người mặc bà ba đen có thắt lưng bằng vải trắng, hông đeo lủng lẳng cây gươm trần sáng chói; kẻ mặc quân phục đen, đầu chít khăn rằn, vai vác siêu đao. Người mang giày da, kẻ đi giày ống, kẻ đi chân. Có cô con gái mặc quần xanh áo trắng, lưng thắt vải hồng, và đầu chít chiếc khăn bằng miếng nhiễu màu xanh da trời. Họ hợp thành tốp ba, tốp bảy. Tốp kéo lại đình làng, tốp kéo ngược ra cầu, tốp kéo ra cây gừa ở bến sông. Mỗi tốp mỗi việc: học võ, canh gác, và dựng pháp trường. Họ đi dưới cái nắng hừng hực. Trên đầu họ, đàn quạ đen vẫn ngang dọc trên không réo nhau tìm xác chết.

Lúc đầu họ còn tán chuyện, cười, nói, la, ó; sau khi sắp thành hàng, họ vừa đi vừa cất tiếng hát:

Lệnh vua hành quân trống kêu dồn

Quan với quân lên đường

Đoàn ngựa xe cuối cùng vừa khuất theo lối thôn

Phất phơ ngậm ngùi bay...(1)

Họ hát mỗi người mỗi giọng to nhỏ, và lệch lạc khác nhau, nhưng đều hòa hợp trong âm điệu u buồn.

Tiếng hát vờn lên trong ánh nắng, rồi theo hướng gió tan đi trong tiếng sóng vỗ ầm ì.

Quản Dõng phi ngựa đến từng tốp, nghiêng đầu nhìn. Ông ta thấy trong những tốp người ấy, vắng mất hai cha con nhà lão Ịnh.

*

Nhà của lão Ịnh cách đình làng không đầy năm tầm đất, và khoảng cách là con đường nhựa. Cửa ngó thẳng về hướng mặt trời mọc. Trước sân có con đường mòn chạy lẫn trong bãi ngô bãi mía đổ tận ra bờ sông. Nhưng bây giờ, đó là bãi cỏ hoang bị giẫm nát dưới vó ngựa và chân người. Nền nhà của lão là mảnh đất rìa của sân đình, hàng năm khỏi phải đóng thuế. Lão dời nhà lại đó cách đây đã tám năm, sau một vụ mất lòng với Quản Dõng. Trước đây, nhà của lão nằm sát mí hàng rào bông bụp của nhà Quản Dõng. Người ta còn nhớ, ngày ấy là một ngày tháng năm năm 1939. Quản Dõng tập trung tất cả tá điền ra chợ để đón chào quan chủ tỉnh về thăm làng. Trước khi đi, Quản Dõng bắt tá điền sắp hàng chỉnh tề để đón thử. Hắn căn dặn từng người một, hễ xe quan chạy qua thì tất cả phải đồng thanh hô to: “Quyu quơ mông xừ lắc mi nit tra tưa” (2). Hắn bắt mỗi người phải hô thử một lần, và xem chừng đã rành rọt nhuần nhã rồi hắn mới cho đi.

Nhưng đến khi xe quan chủ tỉnh chạy qua, thì lão Ịnh xăng áo, nắm quả đấm, đưa cao cái cánh tay đầy lông lá lên, và gào to: “Quyu quơ mông xừ nắc đít gà tơ”. Lão nhấn đi nhấn lại cái tiếng “mông xừ nắc đít gà tơ” ấy. Lão vừa hô vừa đưa quả đấm hướng theo xe. Tiếng của lão lại to lại rõ và át tất cả những tiếng chung quanh. Quản Dõng sợ điếng cả người. Hắn nửa muốn chạy lại bịt miệng lão, nửa lại sợ mất trật tự, nên hắn cứ trợn mắt nhìn lão, miệng cứ ú ớ, hai cái đuôi của bộ râu mũi cứ nhách lên nhách xuống và người cứ nhấp nhỏm. Bà con tá điền đứng trong hàng cứ nghiến chặt răng để khỏi bật tiếng cười. Sau khi xe quan đi qua, Quản Dõng liền đến cật vấn lão. Lão làm bộ như không biết gì, ra vẻ ngạc nhiên và đáp:

- Dạ! Thầy Hương quản hồi nãy dạy tôi làm sao thì tôi hô làm vậy, tôi là dân tá điền, tôi có biết tiếng Tây tiếng u gì!

Lão có nhiều mối cựu thù với gia đình Quản Dõng. Không biết làm cách nào, lão trả thù hắn bằng cách ấy. Quản Dõng biết thế, nhưng không dám làm gì lão. Vì hắn sợ cái tính liều của lão.

Sau đó, Quản Dõng trả thù lại bằng cách mở rộng sân nhà để lấy cớ đuổi lão đi. Khi lão gồng gánh đồ đạc qua nhà mới, lão không có vẻ gì buồn rầu cả. Gặp ai lão cũng nhếch miệng cười và nói mỉa lại:

- Chà! Nhờ thầy Hương quản mà nhà tôi khỏi phải đóng thuế hà hà...!

Sau đó một tháng, cũng như mọi năm, dòng Cửu Long bắt đầu đổi ngọn nước. Nước từ nguồn đổ xuống cuồn cuộn, mang theo từng ề củi riều trôi qua làng. Mùa nào cũng thế, vợ lão bơi xuồng ra giữa dòng vớt củi để chụm và lựa những loại củi quý, lấy mạt cưa làm hương để bán. Không may, gió nổi thình lình, những ngọn sóng to chen nhau tràn tới nhận chìm người đàn bà khắc khổ ấy. Vợ lão chết, để lại cho lão ba đứa con. Đứa con trai lớn mười năm tuổi, tên Hiếu, giữ lại trên gương mặt một hình ảnh của người mẹ là vầng trán hơi cao cao, khác hẳn cái trán thấp tè tè của cha, và hai đứa gái nhỏ một đứa lên tám, một đứa lên ba.

Từ đó, nhà của lão càng hiu quạnh hơn.

Người lão vốn to lớn, vai rộng, ngực nở nang và đầy lông. Gương mặt của lão hơi vuông, lầm lì, trán thấp; hai con mắt xếch to, rừng rực nhưng buồn rầu và cái mũi to như mũi lân. Lão, lúc nào áo cũng cởi phanh, ưỡn cái bộ ngực căng phồng và đầy lông về phía trước. Người ta bảo: lão lấy ngực ở đời. Tính tình của lão nóng nảy, sôi nổi và dữ dội. Lần biểu tình đấu tranh nào cũng có lão, lão luôn luôn đi đầu. Lão đi, vai hơi nghiêng với một vẻ ngang tàng như muốn đưa ngực mình ra đỡ đạn cho anh em.

Năm 1940, sau ngày khởi nghĩa, tưởng là Quản Dõng có dịp để trừ lão; nhưng không, cùng với cảnh tan tác chung, lão đã bỏ làng đi. Bỏ làng đi, lão mang theo hai đứa con nhỏ. Mấy năm sau, ông già Tư Ịnh ấy trở về, người khác hẳn: tóc dài chấm đến lưng, râu cằm che mất cả cổ. Lão mặc quần áo màu già và áo luôn luôn gài cúc. Ông về một mình. Còn hai đứa con nhỏ thì bị chết ở tận làng Hòa Hảo trong năm bị dịch tả.

Ông Tư Ịnh đã vào đạo Phật giáo Hòa Hảo.

Về đến làng, ông không kịp đi thăm hàng xóm, chưa chào hỏi ai một lời, đã vội vã vọt lên nhà Quản Dõng, ngồi chung bàn với Quản Dõng đàm đạo. Vì Quản Dõng cũng mới vừa vào đạo. Người làng nghe có người thuật lại: cách đó không bao lâu, Quản Dõng có lên tận làng Hòa Hảo để xin quy y theo đạo. Quản Dõng gặp lại ông ta, và ngỏ lời muốn mời ông ta trở về làng. Thế là từ đó, hai mối thù của hai gia đình từ lâu thắt chặt lại như cái nút, nay như đã cởi mở ra rồi.

Người ông trở nên đăm chiêu và trầm lặng hơn trước. Mỗi ngày, sau khi việc đồng áng xong là ông mang quyển kinh, quyển sấm đi lê la cùng xóm. Gặp ai, ông cũng gây chuyện, rồi khom mình xuống, kính cẩn lật quyển kinh ra đưa ngón tay to lớn chỉ vào một đoạn:

- Đây! Đây! Đoạn này đây, bổn đạo mình đọc thử câu này coi! - Rồi lão cất giọng trầm trầm:

Người tu có đất để cày

Có non có nước có thầy hộ thân...

và lão rỉ nhỏ vào tai người nghe:

- Đạo này là đạo của dân cày mình. Đạo này là đạo yêu nước, đánh Tây. Đạo này là đạo mưu toan việc nước có Phật trời phù hộ. Bà con không thấy đạo thờ trần điều hay sao? Trần điều màu đỏ là màu máu, màu cách mạng, đó là cờ của đạo mình...

Nếu không thế thì lão cũng đứng giữa mọi người, - tay nắm chặt lấy chòm râu như giữ lấy bộ mặt đừng vênh cao hơn nữa - lão nói về cái hội Long hoa sắp tới theo trí mơ tưởng của mình:

- Sắp đổi đời rồi! Đời sắp tới rồi! Chừng đó, bổn đạo ai mà thành tâm thì mặc sức mà coi - Tay lão đưa tròn lên như vẽ ra cái bầu trời mới - đủ các chư tiên chư phật, muôn thứ hào quang chớp nhoáng, có biết muôn vạn phép tắc thần thông nào mà nói. Con rồng bay phụng múa thì hằng hà sa số Phật!

Rồi, đôi mắt của lão dịu lại, mơ màng và giọng êm dần xuống như khuyên nhủ:

- Bổn đạo mình phải thành tâm theo đạo mới được. Ví như ông trưởng ban kia (ý muốn nói Quản Dõng) bây giờ còn biết cải tà quy chánh thay! Những người biết hồi tâm như vậy, chừng đó Phật trời đâu có bỏ.

Sau cùng, lão kết luận câu chuyện bằng hai câu thơ để nói cái viễn ảnh cuối cùng của đạo mình; lão vừa gật gù vừa ngâm:

Giàu nghèo nào có biệt phân

Người đời cũng hết nợ trần lao đao.

Người nào chịu theo đạo với lão, người đó dù trước đây có thù hằn với lão, lão cũng coi như người ruột thịt. Nếu ai tỏ ra chống lại đạo, thì người đó dù là ruột thịt của lão, lão cũng coi như là kẻ thù.

Lão giữ chức phó ban trong ban trị sự.

Nhờ đó nên Quản Dõng cho lão về với mảnh đất cũ, mỗi mùa được miễn nửa phần thuế và được Quản Dõng cấp riêng cho hai cha con lão một con ngựa lông hồng.

Đêm nay, lão là người xuống tay giết Sáu Sỏi, nguyên là chủ nhiệm Việt Minh huyện. - Tin ấy chưa có gì đích xác, nhưng tín đồ trong làng cứ nghĩ như vậy. Vì Sáu Sỏi là bạn thân của lão - Giờ này lão hãy còn nằm sải tay trên bộ phản đen mun. Lão hãy còn say nắng và đang chập chờn với giấc ngủ nặng nề. Đầu lão gối lên bộ truyện Tam quốc đã sờn gáy và hoe hoe vàng. Áo lão cởi phanh ra, phơi bộ ngực to lớn và xoắn xuýt những chòm lông, chòm râu dài vắt sang một bên cổ.

Trong tiếng sóng trầm trầm và trong tiếng gió rì rào qua hàng dương bên đình, quanh quẩn đâu đây bên tai lão, vờn vợn lên một giọng hát như mơ màng.

Giọng hát của bọn con trai là đà với một nỗi buồn man mác:

Ngựa đi ngoài xa hí vang trời

Chiêng trống khua trầm hồi

Ngần ngại trên núi đồi

Rồi vọng xa khắp nơi

Thắm bao niềm chia phôi.

Giọng nữ bỗng chen vào và vút lên:

Vui ra đi mà không ước hẹn ngày về

Bao nhiêu năm thời gian xóa bao thề

Người không rời khỏi kiếp gian nan

Người biến thành tượng đá ôm con...

Càng về cuối của câu sau cùng, giọng nữ càng nhỏ, vút cao lên, ngân run và vang xa như tiếng chuông đồng. Tiếng hát ấy len vào tâm hồn lão nhoi nhói như một lưỡi khoan. Tự dưng, lão nghe trong lòng mình xon xót nỗi biệt ly, cô đơn và tuyệt vọng.

Bên đình, tiếng ngựa hí vang lên và “độp” một tiếng vó.

Lão giật mình, giương mắt, buông thòng hai chân xuống bộ phản, vừa đưa tay gài cúc cổ vừa lồm cồm ngồi dậy. Lão thấy bàng hoàng. Tóc xõa xuống phủ cả đôi vai, lão ngồi thẫn thờ, và nhìn ra xa. Ngoài xa mênh mông: trắng xóa những ngọn sóng bạc đầu lấp lánh dưới ánh nắng. Từng bầy quạ như những đám tàn đen sau một đám cháy to, bay chấp chới theo ven sông, kêu lên những tiếng lạnh người. Mây khói đèn đọng dưới chân trời dài như một dải núi nằm dọc theo phía bên kia sông.

Cây gừa bên bến nước trước cửa nhà lão, lá chen nhau bum xùm như một cái đầu tóc rối. Dưới gốc, năm ba người đang lom khom dựng pháp trường, kẻ đào hố, người đóng cọc, họ vừa làm vừa cất tiếng hát. Thấy họ dựng pháp trường, ngực lão nhoi nhói đau. Lão kêu thầm: “Anh Sáu! Trời! Anh về mà làm gì?” Lão nghĩ đến cái chết của Sáu Sỏi, rồi cũng mang máng biết ai sẽ là người cầm đao giết Sáu Sỏi trong đêm nay. Lão chợt nhìn xuống hai bàn tay to lớn sần sùi và đầy lông của mình, lão khẽ rùng mình. Tự dưng lão đâm hoảng. Lão nhìn quanh quẩn, mắt lấm lét và sợ chạm phải mặt thằng con.

Lão đã hứa với Hiếu: lão sẽ xin ban trị sự tha chết cho Sáu Sỏi. Nhưng, làm gì...! Nếu Sáu Sỏi chịu đầu hàng, thì mới may ra mà thôi. Nhưng lão biết rằng: Sáu Sỏi vốn người cương trực. Trước đây, lão không đến khuyên nhủ Sáu Sỏi thì là gì? Lão đã nói với Sáu Sỏi biết bao nhiêu lần rồi. Nhưng Sáu Sỏi có chịu nghe đâu. Và mỗi lần gặp Sáu Sỏi là mỗi lần niềm tin của lão bị lung lay. Mỗi lời nói của Sáu Sỏi đều bắt lão phải suy nghĩ lại con đường đi của mình. Tiếng nói của Sáu Sỏi cứ lay thức sự suy nghĩ của lão. Mà lão thì lão không muốn suy nghĩ nữa. Lão chỉ muốn hướng trọn vẹn đời mình cho đạo. Lão nói rằng: hoài nghi là có tội lỗi với Phật Trời và, khi chết thì linh hồn sẽ sa xuống âm phủ. Thế nên, từ sáng đến giờ, mấy lần định đến Sáu Sỏi, lão đều lần lữa rồi lại thôi.

Lão nắm chặt lấy chòm râu theo thói quen, ngồi lặng và nghe xon xót trong đôi mắt.

Ngoài đường, tiếng vó ngựa đồm độp dồn dập phi nước đại trở về. Lão biết là vó ngựa của Hiếu. Lão lật đật đứng dậy định đi lánh mặt thì Hiếu đã thắng ngựa lại giữa sân. Không biết nó chạy đi đâu mà mình ngựa ướt đầm như tắm, mũi ngựa phập phồng, phì phò như hơi lò rèn. Mặt Hiếu đầm đầm và u uất. Hiếu vẫn ngồi trên mình ngựa, lườm mắt nhìn lão như muốn hỏi:

- Còn ở đây à?

Đôi mắt của lão bối rối, chớp lia lịa. Chợt thấy con gà trống ở góc sân đang vướng phải tóc, hai chân lấp vấp, lão vội cúi xuống để tránh luồng mắt của Hiếu, đưa tay vớ lấy cái tàn thuốc, khom mình chạy ra, suỵt một cái đuổi con gà, rồi thuận chân bước rẽ ra sau đường.

Chú thích:

(1) Bài Hòn vọng phu của Lê Thương.

(2) Vive monsieur l’administrateur.

Chương I

Tiến >>

Bản pdf Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội in năm 1963 - Chuyển sang text : hoi_ls
Nguồn: Nhà xuất bản Văn học - 2007 - Vietnamthuquan.eu - Thư viện online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 13 tháng 9 năm 2024