Trang

pearl s. buck

Lời Giới Thiệu - 1 -

Sau khi được trao tặng giải thưởng Nobel năm 1938, tên tuổi nữ văn hào Mỹ Pearl S. Buck đã trở nên quen thuộc và thân thiết với bạn đọc trên khắp thế giới.

Pearl S. Buck (1892 – 1973) là một nhà nhân văn lớn. Bà sống và gắn bó với đất nước Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung gần như suốt cuộc đời. Với trí tuệ sắc sảo và trái tim nhạy cảm, bà đã miêu tả xã hội Trung Quốc ở nhiều thời đại và bình diện khác nhau qua các tiểu thuyết nổi tiếng, trong đó có Bà Vua – hay còn gọi là Người cung nữ (Imperial Woman) và Trang (Peony)…

Nhân vật chính trong tiểu thuyết không phải là một bà hoàng đầy quyền uy và tham vọng như Từ Hi Thái hậu; cũng không phải là một tiểu thư khuê các, diễm kiều chốn Hoàng cung mà chỉ là một nữ tì Trung Hoa trong gia đình thương gia Do Thái giàu có.

Tình yêu trong sáng giữa Trang và Đavít (con trai ông chủ) nảy sinh và phát triển cùng với tuổi thơ ấu và hoa niên của họ. Song mộng mơ của tuổi trẻ đã vấp phải những trở lực vô hình mà vô cùng nghiệt ngã của tôn giáo, đẳng cấp và thành kiến dân tộc. Bao đau đớn, dằt vặt đã vò xé cõi lòng người thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Nàng tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu và duy nhất của mình. Nàng luôn phải đối phó với những hoàn cảnh éo le, ngang trái, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để được sống chung với chàng dưới một mái nhà - dù chỉ với tư cách là một nữ tì.

Suốt đời, Trang âm thầm hy sinh cho quyền lợi của mọi người. Còn nàng, nàng đã tìm cho mình một nơi ẩn thân yên tĩnh, thâm nghiêm: nhà chùa, để gìn giữ trọn vẹn những kỷ niệm sâu sắc về mối tình đầu thiêng liêng - kho báu vô giá của nàng.

Mối tình âm thầm mà thiết tha, cháy bỏng và thanh khiết tuyệt vời giữa Trang và Đavít là bài học bổ ích cho mỗi chúng ta. Qua mỗi trang viết, tác giả dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới phong phú, đa dạng đầy hương vị ngọt ngào cùng cay đắng của tình yêu.

Tác giả khiến chúng ta rung động thực sự trước tâm hồn cao quí của Trang. Qua nhân vật này, bà khẳng định chắc chắn rằng: nhân cách con người không phải do địa vị xã hội và tiền tài quyết định.

Với những cống hiến to lớn trong lãnh vực văn chương, Pearl S. Buck đã góp phần giúp nhân loại ngày càng hiểu và xích lại gần nhau trong tinh thần Hòa Bình và Nhân Bản.

Giáo sư Lê Trí Viễn

1.

Thị trấn Khai Phong lúc bấy giờ vào đầu xuân. Mùa xuân đến muộn với tỉnh Hồ Nam, miền Hoa Bắc.

Sau các bức tường cao, hoa đào đã nở trong các hoa viên, sớm hơn ở các nông trại rải rác khắp cánh đồng phẳng lặng chạy dài chung quanh hào thành thị trấn. Dù được khuất gió, nhưng đến ngày lễ Quá Hải 1, các nụ đào cũng chỉ mới phơn phớt hồng.

Trong hoa viên nhà ông Era, nhiều cành đào đã được cắt từ trước, để các nụ hoa kịp nở trong ngày lễ. Mỗi mùa xuân đến, Trang, người nữ tỳ Trung Hoa lại trưng bày những cành đào đầy hoa khắp các bức tường gian phòng chính. Và hằng năm, ông bà Era cũng không quên lưu ý đến công việc của nàng. Hôm ấy, nghĩ đến mùa xuân băng giá với những cơn gió bấc lạnh lùng thổi thốc vào thị trấn, hai ông bà đặc biệt ngợi khen cô gái trẻ.

- Kìa, bà xem, thật là một phép lạ! Trang nó làm đấy! - Ông Era vừa nói vừa đưa bàn tay mập mạp trỏ các đóa hoa đào.

Bà Era dừng bước ngắm, nét mặt nghiêm nghị đã trở nên dịu hiền. Bà nói:

- Đẹp lắm con ạ!

Trang vẫn im lặng để giữ lễ, hai bàn tay nhỏ bé chắp lại trên cánh tay áo phồng. Nàng bắt gặp nét nhìn của Đavít nên vội quay đi, nhưng khẽ mỉm cười để đáp lại nụ cười nồng nhiệt của Lịch. Vị giáo trưởng già đứng yên vì đôi mắt đã mù hẳn, còn con trai giáo trưởng là Arông, thì Trang không nhìn đến.

Họ ngồi quanh cái bàn tròn lớn đặt giữa gian phòng chính. Trang đôn đốc các nô tỳ hầu khách một cách im lặng, duyên dáng. Nàng điều khiển bốn nữ tỳ khác, trong đó, mụ Hoàng lớn tuổi hơn hết giữ việc hầu trà.

Lâu lắm, từ hồi ký ức nàng còn ghi nhớ được đến nay, hằng năm, Trang đều có dự vào buổi dạ yến này tại nhà chủ nhân. Chính nàng coi sóc việc sắp dọn các món ăn, và đám nô bộc vâng theo lời nàng, vì nàng biết rõ chỗ cất đồ vật trong nhà như chính nàng là con gái của gia đình này vậy.

Người ta xếp cất bộ chén dĩa cẩn thận suốt năm, chỉ đem dùng một lần trong bữa dạ yến thường niên áp lễ Quá Hải. Nào muỗng bạc, nào đũa ngà, nào đèn đồng bảy ngọn chói lọi trong ánh sáng, đèn lồng treo cao trên xà nhà sơn son. Như mọi năm, trên một mâm bạc lớn, Trang đã xếp những vật tượng trưng mà nàng không hiểu ý nghĩa: một cái trứng luộc, một ít thoan thảo 2, vài trái táo, trái hồ đào và rượu nho. Những phẩm vật tượng trưng cho một tôn giáo kỳ lạ!

Ngày hôm ấy xem có vẻ kỳ dị đối với thành phố Trung Quốc này. Và dù đã quen thuộc lễ nghi, Trang cũng không khỏi ngạc nhiên mỗi khi mùa xuân đến. Trước hết là việc tìm kiếm khắp nhà những mẩu bánh men. Sáng ấy, ông Era vừa lục soát trong mọi xó, vừa cười, lơ đễnh như thói quen thường ngày. Xưa kia, bà Era giấu các mẩu bánh thừa, nhưng đã từ bao năm nay bà phó thác việc ấy cho Trang, và ông Era bảo nàng đếm các mẩu bánh để biết lúc nào ông đã tìm xong. Có phần ngượng nghịu trước đám nô bộc, bộ điệu của chủ nhân trở nên ngộ nghĩnh buồn cười. Hồi thơ ấu, Trang và Đavít cùng nhau đi kiếm một cách vui vẻ, đưa tay chỉ mỗi mẩu bánh cấm và cười ngất. Nhưng lúc bấy giờ, nàng chưa biết mình chỉ là một kẻ nô tì.

Bây giờ, nàng đã biết. Nàng đứng yên chăm chú suốt bữa tiệc. Mỗi thực khách, nàng đều biết ít nhiều về họ. Nhất là Đavít! Chính vì chàng mà người ta đã mua nàng, vào một năm đói kém, lúc đê vỡ, nước sông Hoàng Hà tràn ngập các miền đồng thấp. Lúc bấy giờ, nàng còn nhỏ quá! Và dù cố đi sâu vào dĩ vãng, nàng cũng không nhớ được một khuôn mặt nào trước Đavít cả. Đây, kỉ niệm đầu tiên của nàng: gương mặt một cậu bé, hơn nàng hai tuổi, khi nào cũng lớn hơn, mạnh hơn, nên tự nhiên nàng thích gần gũi và nương nhờ che chở. Thuở ấy, cậu là người mà nàng giãi bày tâm sự, gởi gắm ưu phiền, và đã phải khó khăn lắm nàng mới chấm dứt được thói quen này. Nhưng, nàng biết cần phải chấm dứt. Sự thân mật giữa đôi trẻ không thể tiếp tục lúc đã lớn khôn, khi mà một kẻ là chủ và kẻ kia là nô tì.

Trang không than phiền; nàng cảm thấy sung sướng trong gia đình Do Thái khá giả này. Chủ nhân, ông Era là một thương gia phì nộn và vui tính. Không có bộ râu rậm, Trang tự nhủ, ông Era đã giống một người Trung Hoa, vì mẹ ông là người Trung Quốc. Không ai đả động đến điều này bao giờ, điều mà bà Era đã lấy làm khổ sở, nhưng bà tự an ủi vì nhìn thấy Đavít, con bà giống mẹ hơn bố, và càng giống ông ngoại mà chàng mang tên hơn. Mặc dù người ta có mang ơn riêng của bà Era nhưng ai cũng kiêng sợ bà, vì tính khí bà thất thường nên lòng tốt của bà rất dễ tiêu tan một cách đột ngột. Tuổi xấp xỉ ngũ tuần, bà là một người đàn bà cao lớn, mạnh khỏe, và xinh đẹp đối với những ai không chê một sống mũi cong và một màu da sẫm. Bà có một lòng tin vững chắc, những tập quán bất di bất dịch lẫn lộn một cách lạ lùng với lòng quảng đại của bà. Hằng năm, bà mời giáo trưởng và hai người con là Lịch và Arông đến dự lễ Quá Hải. Arông mười bảy tuổi, bạc nhược và giả dối, Trang khinh bỉ vì mặt chàng xanh xao, nhem nhuốc và vì chàng trụy lạc. Nàng tự hỏi, không biết giáo trưởng hay gia đình ông Era có hay biết sự trụy lạc của Arông không. Nhưng thăm hỏi về vấn đề này không phải là việc của nàng. Có lẽ những người Do Thái ở Khai Phong không hay biết gì về hành vi của Arông, còn người Trung Hoa thì quá dè dặt nên không ai mách làm gì.

Lịch khác hẳn em trai. Nàng xinh đẹp, lại hiền lành, đó là bản tính thiên nhiên mà tạo hóa đã phú cho những nhân vật đặc biệt. Trang đứng cạnh bàn nhìn Lịch với một lòng thèm muốn pha lẫn đôi chút ưu tư, nhưng không bao giờ trở thành ghen ghét. Tối hôm ấy, Lịch bận áo màu rượu chát đỏ, với dải thắt lưng vàng, nàng xinh đẹp tuyệt trần, dù vóc dáng hơi cao. Người Trung Hoa không ưa đàn bà hình vóc cao, nhưng nước da màu sữa và đôi mắt đen sáng ngời sau hai hàng mi của Lịch cũng đã bù đắp được khuyết điểm ấy. Còn sống mũi của nàng, dù ít khuyết điểm hơn sống mũi của bà Era, nhưng đối với sở thích của người Trung Quốc như thế cũng vẫn còn cong quá.

Không những đẹp, Lịch còn hơn thế nữa. Nơi nàng có một vẻ tinh thần, một sự cao nhã mà Trang khâm phục mặc dù không hiểu thấu. Người Trung Hoa khen Lịch: “Nàng thụ hưởng đức tính trời ban”. Như thế có nghĩa là đức tính của nàng tự nhiên, tỏa ra từ một nguồn gốc nội tại. Lịch ngồi bên cạnh cha, giúp cha từng li, từng tí. Sự tươi vui của nàng chiếu sáng bữa tiệc, mặc dù nàng rất ít nói.

Có lẽ nàng đã hưởng thụ các đức tính ấy của cha. Cao và gầy, giáo trưởng được bao phủ thánh tính như một cái áo hào quang. Năm xưa, giáo trưởng đau mắt như phần nhiều người Trung Quốc. Ở đây không có thầy thuốc nào để chữa bệnh ấy, và giáo trưởng đã mất thị giác rất chóng, vì là người ngoại quốc nên không được miễn nhiễm. Ngày đôi mắt giáo trưởng không còn trông thấy gì nữa, vợ giáo trưởng mới ba mươi tuổi - bà mất sau đấy không lâu - còn Lịch và Arông thì đang nhỏ dại. Giáo trưởng hình như chỉ là một linh hồn thoát tục. Có lẽ không thấy được mặt người đời, giáo trưởng buộc lòng chỉ chiêm ngưỡng mặt Chúa, hay đó chỉ là kết quả bởi lòng lành tự nhiên của giáo trưởng? Tóc bạc (bạc ít lâu sau khi giáo trưởng mù) bao phủ khuôn mặt cao khiết; đôi mắt sâu, chòm râu trắng phau, làm cho giáo trưởng có vẻ trầm tĩnh và kiêu hùng.

Trang theo dõi từng cử chỉ, từng nụ cười của các thực khách quanh bàn tiệc. Nàng thấy Đavít nhìn Lịch ngồi đối diện chàng, rồi quay sang nhìn chỗ khác. Điều nầy đã làm Trang phải nén lòng vì cảm thấy khó chịu. Đavít cao bằng Lịch, nhưng theo ý Trang thì chàng đẹp hơn. Với tuổi mười chín, vóc dáng Đavít nảy nở đến mức độ đầy đủ của tuổi thanh niên. Chàng vận y phục Do Thái trông rất đẹp, nhưng Trang không thích, vì như vậy sẽ có sự khác biệt giữa hai người. Thường Đavít vận y phục Trung Quốc, giản tiện hơn; nhưng tối hôm ấy, chàng mặc một cái áo dài xanh và vàng, đội một cái mũ Do Thái không vành, bằng lụa xanh, chụp sâu trên mái tóc đen ngắn. Trang không thể không chăm chú nhìn Đavít; chàng gặp nét nhìn ấy và mỉm cười với nàng. Tức thì nàng cúi đầu và quay lại bảo lão Hoàng, người nô bộc lớn tuổi nhất – đem bình rượu lễ đến.

Nàng nói:

- Đưa bình rượu cho chủ nhân.

- Biết rồi. - Lão Hoàng lớn tiếng đáp. - Đã bao năm rồi, không cần phải nhắc nữa! Cô cũng đáng sợ như mụ nhà tôi.

Chính lúc đó, vợ lão vào, theo sau có nhiều nô bộc bưng thau, bình nước và khăn tay dùng vào nghi thức Quán Tẩy. Ông Era rời ghế bọc nệm, nhưng không tự mình làm phép rượu, ông rót đầy cốc của giáo trưởng và thưa:

- Xin thầy làm phép rượu cho chúng tôi.

Vị giáo trưởng đứng dậy, giơ cao cốc rượu để làm phép, rồi tất cả đứng dậy và uống. Khi họ ngồi xuống ghế, thím Hoàng bảo bọn nô bộc rót nước ra thau, mỗi thực khách rửa và lau tay, rồi lấy một ngọn thoan thảo chấm muối ăn.

Đám nô bộc người Trung Hoa tuy đã quen với các nghi lễ trên nhưng vẫn lấy làm lạ lùng. Họ đứng trong phòng, yên lặng, mắt như bị thôi miên đầy kinh ngạc và kính cẩn. Trước vẻ nhìn của lũ nô bộc, ông Era cảm thấy mất tự nhiên trong khi hành lễ. Ông bảo:

- Đavít con! Lịch trẻ tuổi hơn con, hôm nay chính nàng sẽ đặt bốn câu hỏi.

Lịch e thẹn, và đặt bốn câu hỏi với giọng nói rất dịu dàng.

- Hôm nay khác với mọi hôm như thế nào?

Nàng hỏi câu này bốn lần, và bốn lần các thực khách cùng đáp lại, và giọng họ thấp hơn giọng long trọng của vị giáo trưởng.

- Các hôm khác chúng ta có thể ăn bánh men, hôm nay chỉ có thể ăn bánh không men.

- Các hôm khác chúng ta có thể ăn thứ rau nào cũng được, nhưng hôm nay chỉ ăn thoan thảo mà thôi.

- Các hôm khác không cần nhúng rau này dù chỉ một lần thôi, nhưng hôm nay phải nhúng hai lần.

- Các hôm khác chúng ta ngồi thẳng, nhưng hôm nay có thể dựa ngửa ra.

Vấn đáp xong, ông Era thưa:

- Bây giờ xin thầy kể cho chúng tôi nghe lịch sử của Haggadah.

Nhưng đến đây, bà Era liền bất bình can thiệp:

- Ồ! Ông Era, việc ấy là phần ông, chủ gia đình. Hẳn ông đã quên sự tích này, vì mỗi năm ông đều tránh không kể lại. Hoặc, ông biết đọc chữ Do Thái, ông có thể đọc sự tích này cho chúng tôi nghe.

Ông Era cười đáp:

- Trước mặt giáo trưởng đây, tôi đâu dám vô lễ.

Vị giáo trưởng già kể lại chuyện cổ tích ấy. Cụ nhắc lại việc dân tộc Do Thái, xưa kia làm nô lệ cho một nước khác, đã thấy xuất hiện một vị cứu tinh, Mai-sen, người đã đứng lên giải phóng dân tộc. Mai-sen ra lệnh nấu hối hả thứ bánh không men, giết một con cừu cái và lấy máu đánh dấu trước cửa mỗi nhà Do Thái. Dân tộc áp bức bị nhiều tai họa, cuối cùng phải nhượng bộ, và thấy đứa con đầu lòng của mỗi gia đình dân chết, vua họ đành phải để người Do Thái ra đi. Mọi năm, đến ngày ấy, ta làm lễ kỷ niệm về sự giải phóng của dân tộc Do Thái.

- Cho đến ngày, chúng ta ngửng đầu thật cao mà trở về xứ sở, xứ sở của chúng ta.

- Mong sao ngày ấy đến mau, bà Era vừa nói vừa lau nước mắt.

- Cầu mong cho ngày ấy đến mau. Lịch long trọng lặp lại.

Nhưng ông Era và Đavít im lặng.

Trong lúc giáo trưởng nhắc lại sự tích trên, bốn lần Trang ra hiệu cho đám nô bộc rót đầy rượu vào ly và bốn lần các thực khách đều uống cạn, để kỷ niệm một sự việc mà Trang không hề biết ý nghĩa. Nàng chỉ biết là vào lúc đó thì phải rót đầy rượu. Cũng như mọi người Trung Hoa, đến danh từ Do Thái nàng cũng không hiểu ý nghĩa là gì. Đã lâu lắm, người ta thấy các người ngoại quốc này từ một xứ xa lạ đến, xứ Do Thái, như người ta nói, và họ đã làm ăn thịnh vượng tại thị trấn Trung Quốc trù phú này. Người Do Thái đã vượt qua Ba Tư và Ấn Độ, bằng đường thủy và đường bộ. Từ đời này sang đời khác, đã nhiều lần trải qua lịch sử, từng đợt nhỏ, lớp người làm nghề buôn bán đổi chác đến trước. Rồi sau họ đến đông hơn, kể có hàng trăm đem theo gia đình và cả giáo trưởng nữa. Tổ tiên ông Era cũng đã di cư đến đây từ bảy tám mươi năm nay, với bảy mươi gia đình khác, mang đầy vải, một thứ hàng rất quí đối với người Trung Quốc, vì họ chỉ biết dệt lụa. Hàng vải ấy đem dâng cho một Hoàng đế của thế hệ cũ, đổi lại, gia đình Era được thấm nhuần ơn vũ lộ của Hoàng gia, và được ban họ Trung Quốc là Cao. Vì vậy ở Khai Phong người ta còn gọi ông Era là Cao tiên sinh nữa.

Đối với lớp người di cư này, người Trung Quốc tỏ ra có nhiều thiện cảm. Theo họ, người Do Thái thông minh, cương quyết, sắc sảo hơn hẳn một người Trung Quốc. Họ đã giao cho một người Do Thái trông coi cửa hàng của mình, có khi lại gả luôn thứ nữ cho nữa. Nhưng không bao giờ người Do Thái gả con cho người Trung Quốc.

Khi thấy giáo trưởng ngồi xuống, thím Hoàng bảo nhỏ chồng:

- Đem món trứng mau lên!

Cũng như Trang trước kia, gia đình này đã mua thím Hoàng để làm nô tì. Lúc bấy giờ, thím Hoàng trẻ và đẹp, cũng coi sóc việc tiệc tùng như Trang bây giờ. Nay vì đã già và rất tốt bụng nên không hề ganh tị với Trang nhưng đôi lúc thím cũng tỏ ra ta đây thạo việc.

Lão Hoàng chạy ra cửa, gọi hai kẻ nô bộc bưng đến những dĩa trứng luộc trong nước muối, đã bóc vỏ. Chủ khách mỗi người lấy một quả và ăn một cách im lặng. Tiếng nói của vị giáo trưởng già lại trầm dội chung quanh bàn tiệc:

- Đây là biểu hiện sự đau khổ và niềm hy vọng của chúng ta.

Ăn trứng xong, ông Era vỗ hai bàn tay vào nhau, và nói:

- Bây giờ, bữa tiệc bắt đầu.

Hai vợ chồng lão Hoàng cùng ra khỏi phòng với các nô bộc khác; họ vén các bức rèm và bưng vào đủ các thức ăn, gà, vịt, và nhiều món thịt khác, trừ thịt heo. Các đĩa thức ăn dọn quanh bàn thành một vòng tròn lớn. Ông Era cầm đũa mời khách, và tự chọn các miếng ngon gắp bỏ vào chén của giáo trưởng và Lịch.

Bữa tiệc bắt đầu; ông Era ăn uống ngon lành, các mạch máu đỏ ở cổ ông căng lên. Ông vui vẻ trò chuyện liên miên, ép mời khách dùng món này món khác. Chỉ một mình Arông vẻ ngoài xanh xao không nói năng gì. Chàng ăn hối hả và ngốn ngấu như người đã nhịn đói lâu ngày. Lịch liếc nhìn em có vẻ trách móc, nhưng chàng không hề để ý. Một lần, chợt gặp nét nhìn của Lịch, chàng bĩu môi. Đavít thấy vậy và lấy làm bất bình. Im lặng, chàng lựa một miếng thịt thật mềm trong dĩa mình, gắp bỏ sang dĩa Lịch. Và Trang thấy rõ điều ấy.

Bữa tiệc tiếp diễn theo tục lệ. Tửu nhập ngôn xuất, ông Era mỗi lúc mỗi vui thêm, đến nỗi chính bà Era cũng phải phì cười về những câu nói khôi hài và những chuyện không đầu không đuôi của chồng. Arông cười ngạo nghễ. Đavít và thân phụ đối đáp hùng hồn, Lịch cười vui sướng; và trước sự thán phục của song thân, rốt cuộc Đavít chỉ nói đùa với mục đích duy nhất là làm cho Lịch vui cười thêm lên. Và Trang đã thấy điều ấy.

Nàng không lộ vẻ gì cả. Nàng bận rộn với công việc, miệng luôn luôn giữ một nụ cười dịu dàng, dửng dưng. Sau cùng, nàng cho đám nô bộc lui ra hết. Một mình nàng rót rượu và thay các món tráng miệng cho đến lúc tiệc tan, khách khứa ra về. Tiếp đến, nàng vào sửa soạn mùng màn cho Đavít, trải tấm lụa ra và kéo hàng móc bạc để buông các bức màn thêu. Nhưng nàng không đợi Đavít đến. Nàng lui về phòng riêng và nằm trên một cái giường hẹp. Nàng trằn trọc mãi, thấy lại vẻ mặt của Đavít khi chàng quay nhìn Lịch, hình ảnh này đã làm nàng mất ngủ.

Sáng hôm sau, Trang thức dậy thật sớm, dưới mi mắt còn giữ nguyên hình ảnh Đavít nhìn Lịch tối hôm qua. Nàng cựa mình tự nhủ “Mình thật là khờ dại!” và trỗi dậy, rửa ráy, thay áo quần, chải tóc, sắp dọn phòng ngủ thật ngăn nắp. Xong, nàng đi ra vườn đào, cảnh vật còn đang chìm đắm trong bầu không khí tĩnh mịch của một buổi sáng mùa xuân. Sương đêm còn đọng trên ngọn cỏ, bốc hơi thành một đám màu bạc, và trong hồ giữa vườn, nước chảy róc rách trên kẽ đá, đàn cá vàng bơi lội lóng lánh dưới mặt nước trong veo.

Trong dãy nhà liên tiếp bao bọc quanh vườn, mọi người đang an giấc. Đàn chim tự do hót dưới mái hiên không sợ ai phá phách, và một chú chó xù nhỏ ngủ trên ngưỡng cửa như một con sư tử tí hon. Nghe tiếng kéo rèm, con chó vểnh tai theo dõi, và chợt thấy Trang, nó đứng dậy thủng thỉnh đến với nàng một cách oai vệ, rồi dừng lại ở giữa đường đợi chủ cúi xuống đưa bàn tay thanh mảnh vuốt ve.

- Suỵt! Cả nhà còn ngủ. - Trang khẽ bảo.

Con chó được vuốt ve, lại nằm xuống. Trang đứng thẳng dậy mỉm cười và nhìn quanh khắp nơi vẻ vui thích như sau bao năm sống tại đây, bây giờ là lần đầu tiên nàng thấy vườn đào này vậy. Và, cũng như mọi lần, nỗi bất bình đêm trước lại tiêu tan ngay. Với bình minh, bao nỗi vui sướng của đời nàng bừng dậy. Nàng thích tiện nghi, thích thanh lịch, mà ở đây thì tràn trề các điều ấy! Dĩ nhiên không phải nàng ở giữa trung tâm sự trìu mến nồng nhiệt của gia đình này, nhưng ở đây sự sung túc ấy nhiều đến mức tràn ra tới cả nàng gia nô xinh trẻ. Trang không còn lo sợ như đêm qua, nàng rón rén bước men theo con đường lát đá và đến gần một cây đào đang trổ hoa. Nàng dùng kéo cắt lấy một cành. Y phục nàng bằng xa tanh hồng ở giữa màu hồng và xanh non ấy, mặt nàng trắng như ngà với đôi mắt hạt huyền, nổi bật dưới mái tóc đen. Tóc nàng tết đuôi sam cuốn quanh tai, và một diềm tóc lòa xòa trước trán. Trang nhỏ bé và mảnh mai, gương mặt đầy đặn và nghiêm nghị với đôi đồng tử đen, to một cách lạ thường ở giữa tròng trắng rất trong, hai mắt sáng ngời vui vẻ trên cái miệng xinh xinh tươi thắm. Khéo léo, nàng với tay cắt các cành cao, và tay áo hồng để lộ đôi cánh tay xinh xắn tròn trặn.

Nàng vừa cắt xong, bỗng nghe có tiếng gọi:

- Trang!

Nàng quay lại, và thấy Đavít đang từ góc vườn bên kia đi đến. Bao nhiêu mệt nhọc đều tiêu tan. Còn ai hiểu Đavít hơn nàng nữa? Bây giờ chàng đã cao lớn, nhưng sau cái hình dáng cao lớn ngày nay, Trang vẫn thấy cậu thiếu niên quen thuộc ngày xưa. Dẫu vậy, nàng cũng thấy chàng có vẻ khác vì hình vóc ấy và cũng vì đôi mắt huyền, mái tóc đen, và nước da sẫm đặc biệt người Trung Quốc. Sáng dậy, chàng mặc áo lụa mỏng, màu xanh đậm, thắt lưng bằng lụa trắng. Và Trang nghĩ đến chàng như một người thân thuộc. Chàng lộ vẻ hờn dỗi, cái miệng xinh xắn và trẻ con của chàng nhíu lại.

- Tôi gọi, sao Trang không đáp?

Trang để một ngón tay lên môi, thỏ thẻ:

- Cậu đã hứa là không theo tôi ra vườn cơ mà.

Rồi nàng nói thêm:

- Thưa Thiếu chủ!

Chàng hỏi lại rất nhỏ, nhưng với giọng giận dữ:

- Bấy lâu, Trang đâu có gọi tôi bằng chủ, vì sao có sự thay đổi này từ hôm qua?

Trang sắp xếp các cành đào.

- Hôm qua, bà bảo tôi gọi cậu là Thiếu chủ.

Ngập ngừng, với một giọng e lệ tương phản, với một vẻ tinh nghịch trong đôi mắt đen dưới hàng mi dài và thẳng, nàng giải thích:

- Nay chúng ta đã lớn rồi. Bà bảo thế.

Thật vậy, sáng hôm qua, bà Era nổi cơn lôi đình giữa lúc sửa soạn cuộc tiệc. Bà đã gắt gỏng với Trang, chỉ vì nàng đã dại dột hỏi:

- Nên sắp chỗ Đavít ngồi đâu?

- À, con này láo thật, dám kêu tên con trai bà! - Bà Era mắng.

- Nhưng thưa bà, lâu nay con không gọi thế sao?

- Không được gọi tên như thế nữa. Đáng lẽ mày phải nhận thức trước tiên rằng, chúng mày không còn là con nít ngây thơ gì.

Bà ngừng một lúc rồi tiếp:

- Vì bà đã bảo mày điều đó, nên từ nay bà cấm mày không được vào phòng Đavít khi có mặt nó, bất cứ một lẽ gì… Và bà cũng không muốn nó vào phòng mày.

- Thưa bà, vâng.

Trang phải quay đi để bà chủ khỏi thấy mình khóc, và bà Era đã nguôi giận.

- Trang, con! Bà không phiền trách con đã lớn. Nhưng con phải rõ điểm này! Bất kỳ xảy ra điều gì, phần lỗi bao giờ cũng về phía người đàn bà.

- Thưa bà, vâng.

Bây giờ, Đavít càu nhàu:

- Ồ, Trang không biết tính mẹ tôi sao?

Trang nhìn Đavít tinh nghịch.

- Bà sẽ mắng Thiếu chủ mặc áo như thế này. Cũng hôm qua, bà còn căn dặn tôi phải coi sóc y phục của Thiếu chủ. Bà bảo: “Đó là bổn phận của kẻ nô tì”.

Vừa nói, nàng vừa cẩn thận đặt bó hoa xuống đất, rồi đến gần Đavít. Chàng cười, cái cười bâng quơ, tình tứ, tinh nghịch của một thanh niên, và để mặc Trang sửa lại y phục cho mình. Thân hình Đavít cao hơn Trang và che khuất nàng, nên có ai từ trong nhà trông ra cũng không thấy nàng được; nhưng chàng cũng nhìn nhanh qua vai nàng và hỏi:

- Trang là nô tì của ai vậy?

Nàng ngước đôi mi dài, đáp:

- Nô tì của Thiếu chủ. - Nàng cố gắng để khỏi phải bật cười, và tiếp. - Như thế không có nghĩa là tôi đáng giá gì đâu; chắc Thiếu chủ đã biết người ta mua tôi bao nhiêu rồi: một trăm đồng và một bộ áo quần.

- Phải, lúc Trang còn là một con bé lên tám, gầy xơ gầy xác. - Chàng đùa đáp. - Bây giờ Trang đáng giá lắm. Xem nào! Mười bảy tuổi, đẹp nhưng rất khó bảo. Tóm lại, Trang là một thiếu nữ đầy hứa hẹn! Bây giờ đáng giá mười lần hơn.

- Xin Thiếu chủ im cho. Cái cúc áo này gần rơi mất, Thiếu chủ theo tôi để tôi khâu lại.

- Vào phòng Trang chứ?

Nàng lắc đầu:

- Bà cấm.

- Vậy, vào phòng tôi.

Trang lại lắc đầu; nàng ngập ngừng, lúc đó hai người nghe tiếng kéo rèm. Tức thì, Đavít theo một con đường nhỏ quanh co, lẩn tránh sau một tảng đá, và Trang cúi xuống ôm bó hoa lên. Nhưng đó chỉ là thím Hoàng ra quét thềm nhà.

- Tôi thấy rồi. - Thím ấy bảo.

- Và sao nữa? - Trang hỏi lại kiêu hãnh.

Và nàng đi vào trong ánh sáng lờ mờ của gian phòng chính để cắm hoa đào vào đôi bình sứ men xanh, vẽ hoa sơn trà trắng, đặt trên bàn cạnh tường. Sáng ấy, nếu không quan sát tỉ mỉ, người ta có thể lầm tưởng đã vào phòng khách của một thế gia Trung Quốc. Sau bữa tiệc tối hôm qua, cái bàn tròn đã dẹp đi, và sắp đặt lại theo kiểu Trung Hoa. Một bộ trường kỷ kê sát tường đối diện với cửa lớn trông ra vườn, ở trước, có một cái án thư và hai cái ghế bành đặt hai bên. Rải rác từng nơi lại có đặt những bàn nhỏ hơn, cứ mỗi bàn hai ghế, sắp dọc theo tường. Những bức màn xa tanh đỏ che lấp các ngõ trống, và thay thế cửa sổ chỉ có những cánh cửa đầy chấn song, trông ra vườn. Xuyên qua chấn song hình mắc võng khảm xà cừ, ánh mặt trời lọt qua như lọc, chiếu thành ngũ sắc trên nền nhà lát đá hoa cổ màu xám, trên tường tô thạch cao, và đến tận trần mà xà nhà sơn son lâu đời bây giờ với thời gian đã thành màu đỏ sẫm.

Nhưng chú ý nhìn kỹ sẽ thấy một đặc điểm ngoại quốc trong gian phòng khách kiểu Trung Quốc này. Phía trên bộ trường kỷ, chỗ tôn quý nhất có treo một bức trướng xa tanh xanh thêu chữ Do Thái vàng rất nổi; phía dưới, hai cây đèn đồng bảy ngọn bóng nhoáng, và trong một góc phòng kê một cái tủ đựng pháp điển Do Thái xưa. Trang lùi lại để ngắm kỹ hai bình hoa đào. Sẵn khéo tay, nàng đã sắp xếp thành một khung cảnh đẹp như một bức họa. Nàng mỉm cười, hơi nghiêng đầu về một bên. Một niềm vui thích bộc lộ trên khuôn mặt xinh tươi của Trang, nàng thì thầm với thím Hoàng:

- Hễ đào trổ hoa là mùa xuân đến. Nhờ ơn trời, ngày hội mùa xuân của ta đến sau ngày lễ thiểu não kỳ dị của họ.

Nàng nhún vai, khoa tay, và ghé ngồi vào một cái ghế bành lớn.

- Thím Hoàng ở đây đã lâu, thế mà có biết vì sao họ lại thích than khóc như vậy chăng?

Thím Hoàng mím môi đáp:

- Đến lượt chị sẽ than khóc, nếu bà chủ vào và thấy chị ngồi trên cái ghế bành ấy. Thật là táo bạo! Thú thật, trong ba mươi năm trời ở đây, chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến chuyện ngồi trên các ghế bành này.

- Xin thím đừng giận.

Trang đứng dậy và mở cái quả sơn đựng bánh để trên bàn. Nàng lấy một chiếc bánh mè và bẻ ăn.

- Ngay cả thứ bánh ấy tôi cũng không bao giờ dám đụng tay đến. - Thím Hoàng bảo.

Trang cứ tiếp tục ăn.

- Bánh này hôi mỡ heo. - Thím Hoàng vừa nói, vừa cầm một cái lên ngửi. - Chết rồi! Chính mỡ heo. Tôi đã dặn chị mua tại các tiệm bánh chay kia mà.

- Tôi cũng đã bảo chú Hoàng như thế. Đó là chú ấy mua, chứ không phải tôi.

- Chị dám bảo nhà tôi như vậy à?

Trang mỉm cười không đáp. Nàng giở nắp cái giỏ đựng bình trà xem còn nóng không, và rót nước ra chén sứ nhắp từng ngụm nhỏ.

- Chén này tôi cũng chưa bao giờ được uống. - Thím Hoàng vừa nói, vừa ngậm một cái bánh mè. - Không còn nghi ngờ gì nữa, đích thị mỡ heo. - Thím càu nhàu như giọng đưa đám ma, nhưng vẫn ăn nốt cái bánh.

- Vì sao họ không thích mỡ heo? Thật cũng kỳ, sống ngay giữa các sự mê tín của họ mà tôi còn chưa hiểu ý nghĩa những điều ấy.

- Đó là tôn giáo của họ. - Thím Hoàng vừa nói, vừa lấy một cái bánh khác. - Người ta làm lắm điều ngộ nghĩnh khi mà người ta tin. Tôi có một bà dì đã cạo đầu đi tu sau khi vị hôn phu chết. Từ đó, bà ta ăn chay nằm đất, lem luốc vất vả. Vì sao? Nào ai biết? Nhưng bà ta lấy vậy làm vui sướng.

- Nhưng phu nhân nhà ta đầy lý luận kia mà?

Trang rót một chén nước trà mời thím Hoàng, nhưng thím lắc đầu. Trang bưng hai tay cố mời:

- Thím uống đi, sau bao nhiêu năm thím đáng được uống lắm. Vả lại, họ có biết đâu mà sợ.

- Biết đâu chị lại không lẻo mép đấy?

- Không bao giờ tôi lại đi mách lẻo về bất cứ điều gì tôi biết được. - Trang cũng đáp, giọng nghiêm nghị.

Thím Hoàng đặt chén xuống bàn.

- Chị biết được điều gì nào?

- Vậy bây giờ thím muốn tôi nói à? - Trang mỉm cười hỏi.

Thím Hoàng cũng không thua:

- Tôi cũng biết đôi chuyện.

- Chuyện gì?

Cứ giọng nói và vẻ nhìn của Trang, thì không thể nào nghi ngờ sự ngây thơ của nàng được.

- Chị và Thiếu chủ.

- Tôi và Thiếu chủ? Thím đừng có tưởng như xưa kia thím với lão gia.

Thím Hoàng nhìn sững Trang, thẹn đỏ mặt.

- Chị dám bảo vậy à? - Thím kêu lên.

Trang nhún vai:

- Tôi đâu phải là người hay bịa đặt.

Thím Hoàng nghiến răng, quát:

- Im, con chết chém!

Trang vịn vào cánh tay áo thím Hoàng:

- Trong nhà này nếu thím với tôi mà xích mích nhau thì còn lấy ai làm bầu bạn nữa?

Nàng do dự, rồi tiếp:

- Tôi chỉ là một nữ tì. Biết làm sao được? Bổn phận tôi phải săn sóc chàng, ca hát cho chàng tiêu khiển khi chàng bực bội, đọc sách cho chàng nghe khi chàng không an giấc, và mang thức ăn lại cho chàng mỗi khi chàng đói… nghĩa là hầu hạ chàng đủ điều. Hôm qua…

Nàng lại nhún vai.

Thím Hoàng xích lại gần thì thầm:

- Chị có biết việc gì phải xảy đến không?

Trang lắc đầu buồn bã đáp:

- Tôi không muốn nói dối. Tôi biết việc ấy lắm. Nhưng chắc không bao giờ chàng được hạnh phúc với Lịch.

- Chàng phải kết duyên với nàng, cũng như thân phụ chàng đã phải kết duyên với một người đồng chủng.

Và thím Hoàng quả quyết:

- Tôi còn nhớ hôn nhân giữa hai người đã được quyết định từ khi họ còn nằm ngửa trong nôi. Lúc đó chưa có chị.

Trang dịu dàng đáp.

- Thím tưởng tôi không biết sao? Lịch đã nói với tôi điều ấy khi chúng tôi còn nhỏ, chơi đùa với nhau, Đavít, Lịch và tôi. Nàng thường bảo: “Tôi phải kết duyên với Đavít và chàng thì cứ luôn luôn đáp lại rằng: “Lịch, đừng nói vậy!”.

Thím Hoàng thở dài:

- Bây giờ, nàng đã mười tám, và chàng mười chín. Đã đến lúc họ sắp thành hôn.

- Suỵt! - Trang khẽ bảo.

Cả hai lắng tai nghe ngóng. Có tiếng chân bước đều đặn mỗi lúc một gần, khoan thai và mạnh dạn. Lật đật, họ bỏ bình trà vào giỏ, đậy nắp cái quả sơn lại, quét bàn và chùi bộ chén sứ. Một lát sau, thím Hoàng lại tiếp tục quét nhà, Trang lấy khăn lau bàn và các ghế bành bằng gỗ chạm.

Một bàn tay mập mạp đầy nữ trang vén tấm màn bằng hồng đoạn ở phía đông gian phòng, bà Era hiện ra trước ngưỡng cửa. Sáng nay, phục sức của bà trông rất lạ: xiêm y Trung Hoa bằng lụa xám, và mũ Do Thái bằng hàng sọc. Hai người nữ tì đứng dậy không nhúc nhích, lễ phép chào:

- Xin kính chào phu nhân!

Họ phải giữ gìn vì sợ cơn lôi đình của bà chủ sau ngày lễ hôm qua.

Bà Era nghiêm khắc nói:

- Cả hai làm gì thì làm nhanh lên, ông chủ sắp tới bây giờ.

Bà thủng thỉnh bước vào, chiếc xiêm dài màu xám bạc gợn sóng chung quanh.

Bà ngồi xuống chiếc ghế bành đặt phía trái án thư, trông ra vườn.

- Đáng lẽ giờ này ông phải có ở đây rồi chứ. Nhưng có bao giờ ông giữ đúng giờ giấc đâu!

Thím Hoàng kính cẩn hầu trà, và thưa:

- Lão gia thích khệnh khạng trong phòng trà mỗi khi vào uống chén nước đầu tiên buổi sáng. - Thím Hoàng thường có giọng nói vô tư lự, cử chỉ hơi suồng sã của một tì nữ già đã sống lâu trong gia đình. - Phu nhân nghĩ xem, lão gia trông đợi tin tức đoàn thương hồ hằng ngày...

- Đoàn thương hồ! - Bà Era thét lên. - Động việc gì càng viện đoàn ấy ra để chữa lỗi.

- Thưa phu nhân, chúng tôi cũng ngóng tin đoàn ấy sốt cả ruột.

Thím Hoàng cười tiếp:

- Ngày đoàn ấy về tới nơi, thật chẳng khác nào một ngày tết Nguyên Đán.

Đoàn thương hồ này, ông Era tổ chức đi ra ngoại quốc hằng năm dưới quyền điều khiển của ông Cao Liên, người chung vốn rất tin cẩn của ông. Đường bể xuyên qua Âu châu, Phi châu mau hơn đường bộ phía bắc, nhưng đi đường bộ với cách chuyên chở hàng hóa trên lưng lạc đà, đã rẻ tiền lại chắc chắn không sợ nguy hiểm. Năm nay, Cao Liên viết thư về bảo rằng, đoàn về trễ và mùa đông còn ở ngoại quốc, vì những lý do mà khi tới nhà mới bày tỏ được. Sang năm mới, đoàn đã lên đường. Từ một tháng nay không nhận được thư nữa, ông Era chắc đoàn sắp về tới nơi. Ông trông ngóng là phải lắm, làm thế nào để bán các thứ hàng ấy được thật nhiều lãi, đó là sự lo lắng của đời ông. Lâu nay, ông đã thương lượng với ông Khương Thành, một đại thương gia Trung Quốc, vì ông này có nhà hàng khắp các thị trấn lớn trong tỉnh, và còn dự định mở một hãng buôn to tại Bắc Kinh, ngay trước mắt các bà mệnh phụ trong cung.

Bà Era không nghe thím Hoàng nói. Bà ngửng đầu hít mạnh.

- Mùi gì thế này?... Thôi đúng rồi! - Bà quay lại quả quyết. - Thím Hoàng, mở quả bánh ra xem nào.

Thím Hoàng bưng quả bánh trao cho Trang, rồi thưa với bà Era:

- Bẩm bà, con vừa nói với Trang là đã mua lầm thứ bánh này rồi. Chúng con vừa nếm thử.

- Mỡ heo! - Bà Era thét:

- Lỗi tại nhà con cả, già một đời mà còn nhát, nhát đến nỗi đi không tới tiệm bánh chay. Người hư hỏng thế mà bà đã buộc con lấy làm chồng. Con đã phải khổ sở bao nhiêu năm nay!

Bà Era mắng:

- Sao lại còn sắp vào quả! Cất đi cho khuất mắt ta.

Trang im lặng, duyên dáng mang quả bánh tiến ra cửa, rồi nàng mỉm cười nhẹ nhàng bước khỏi phòng. Đến hành lang, nàng dừng lại vén một bức màn, mà sau đó, lão Hoàng dán mình ẩn sát tường. Lão ta để một ngón tay lên miệng, và rón rén theo sau Trang đi hết dãy nhà cầu đến thư viện. Trang đưa quả bánh cho lão và hỏi:

- Chú có nghe gì không?

Lão Hoàng gật đầu đáp:

- Tôi định vào báo tin lão gia sắp đến, nhưng vừa nghe thế nên vội đứng núp ở đấy.

- Chú thấy chưa, chú đã làm phiền cho thím và tôi biết bao. - Trang dịu dàng nói. Đôi mắt đen to của nàng thoáng lộ vẻ bướng bỉnh và đôi môi tươi thắm nở một nụ cười hóm hỉnh.

Lão Hoàng đi núng nính, đáp lại vẻ ranh mãnh của Trang:

- Bánh này tất phải có người ăn. Đối với thượng đế người này ăn hay người khác ăn nào có khác gì? Miễn là đừng phí của trời.

Lão đưa quả bánh ra, và Trang vén tay áo sa tanh nhón lấy một chiếc.

- Chú nếm thử một chiếc xem. Chú cũng là người như người khác mà.

Họ ăn một cách ngon lành, trịnh trọng, hoàn toàn thông cảm nhau. Khi ăn xong, Trang rút chiếc khăn bằng lụa lau mấy ngón tay.

- Nói cho cùng, dân tộc ta ăn bánh nhân mỡ heo cũng chẳng tội lỗi gì. Vậy tại sao người ngoại quốc lại từ chối món ăn ngon lành ấy?

- Nào ai biết. Làm sao mà hiểu được tín ngưỡng của họ? - Lão Hoàng đáp.

Có tiếng mở cửa. Họ quay lại:

- Kính chào chủ nhân. - Lão Hoàng vội vã thưa.

Trang cúi đầu duyên dáng khi chủ vào. Ông Era dáng người bệ vệ và sáng nay xem bộ hớn hở lắm. Trang nhận thấy thế và mỉm cười. Nàng còn lạ gì sự vui vẻ của chủ. Gần đến ngày lễ, ông Era buồn bã và dễ nổi giận, miễn cưỡng thi hành các nghi thức do bà chỉ dẫn. Nhưng ngay sáng hôm sau, ông vui vẻ trở lại, và vội vàng vùi mình vào công việc thương mại đang phát đạt.

- À Trang! Sáng nay con đã cắt hoa đào thêm chưa? - Ông Era vừa hỏi vừa vuốt râu.

- Bẩm ông, con cắt thay vào bình rồi, hoa hôm qua úa ngay sau buổi lễ. - Trang ngoan ngoãn đáp.

- Con có thấy Đavít không?

- Bẩm không!

- Nếu con thấy cậu thì kiếm cách đừng cho cậu đến nghe! - Ông buộc lại thắt lưng, siết chặt thân hình mập mạp và sửa lại khăn đội đầu cho ngay thẳng giống như sắp vào dự một buổi lễ. - Ta không muốn Đavít nghe câu chuyện này. - Ông nói rất nhỏ với Trang. - Bà muốn ông bằng lòng về việc hôn nhân của cậu. Nhưng cậu không ưng, phải không con?

- Bẩm ông, con không rõ. - Trang khẽ đáp.

- À, phải. Làm sao con rõ được? Trước ngày lễ hôm qua, cậu không gặp Lịch đã bao lâu rồi?

- Bẩm, cậu con gặp nàng ở giáo đường.

- Họ có trò chuyện riêng với nhau không?

- Bẩm không, kể từ năm nàng mười sáu tuổi.

- Nghĩa là…

- Dạ, hơn hai năm nay ạ…

- Có khi nào cậu nói chuyện về nàng không?

- Dạ, nói với con thì không.

- Họ có thư từ gì với nhau không?

- Bẩm ông, không.

Tự nhiên, ông Era nhìn quanh và chợt ông thấy quả bánh mà lão Hoàng đang bưng đứng đấy, và lắng tai nghe.

- Quả gì thế? Bánh à?

Trang nhanh nhẩu:

- Bẩm, bánh nhân mỡ heo.

- Đáng tiếc. - Ông Era thẫn thờ bảo. - Nhân mỡ… Hề gì! Ta có phải là chính thống đâu… - Vừa nói ông vừa lấy một chiếc bánh ăn ngon lành. - Bánh ngon mà… thật đáng tiếc. Nhưng không thể để bánh này ở trong nhà được.

Ông Era vội vã bỏ đi. Trang và lão Hoàng nhìn nhau cười lớn rồi lão Hoàng đi xuống nhà bếp, còn Trang trở lại gian phòng chính. Nàng theo sát sau ông Era vào phòng nên không ai thấy.

- Tôi đợi ông từ nãy đến giờ. - Bà Era nói với chồng giọng giận dỗi.

- Tôi cũng thế, bây giờ, tôi đợi bà. - Ông Era đáp, rất bình thản.

Ông ngồi xuống chiếc ghế bành lớn đối diện với vợ, uống nước trà và bảo thím Hoàng hầu điếu. Thím Hoàng lấy đóm lửa đang ngún, thổi tàn, và châm vào thuốc. Chiếc điếu bình thật là một lợi khí trong câu chuyện mà ông Era phải đương đầu với vợ. Nào là nhồi thuốc vào nõ điếu nhỏ xíu, rồi lại nhồi thêm cho đầy, châm đóm, kéo một vài hơi, thổi tàn đi, rồi lặp lại các động tác trên từ đầu chí cuối. Đó là bao nhiêu duyên cớ để chậm trả lời một câu bà hỏi, để đắn đo dừng lại nửa chừng, hay để lặp đi lặp lại một câu cần thiết.

Bà Era dằn từng tiếng:

- Khi tôi nói rằng tôi sẽ đến đây sau bữa điểm tâm, là tôi có mặt đúng như tôi đã nói, dù sáng hôm sau ngày lễ cũng thế.

- Không ai nghi ngờ được điều ấy cả. - Ông Era thản nhiên đáp.

Vóc người ông Era to lớn, râu đen, nước da xanh xanh, ông ngồi chật cả chiếc ghế bành lớn. Sáng nay, ông mặc áo Trung Hoa bằng sa tanh mình gấm, màu đỏ thẫm, dài phết gót, choàng ra ngoài một chiếc áo cánh nhung màu đen, đầu quấn khăn lụa màu sặc sỡ, và một tai mang một chiếc khuyên vàng to, còn tai kia thì để trần. Cũng như hai tay, hai chân ông Era to lớn mập mạp, cân đối với thân hình nặng nề và khuôn mặt phì nộn. Với cử chỉ chậm chạp, trông ông có vẻ lờ đờ, nhưng thật ra ông cương nghị hơn là uể oải.

Bà Era nhìn chồng càng thêm sốt ruột. Họ rất xứng đôi. Bà hiểu chồng và hết lòng thương yêu chồng, nhưng không ai chọc tức bà hơn ông.

- Ông có thấy Đavít không?

- Buổi sáng tôi ít khi gặp nó. Từ lúc ngủ dậy đến giờ, tôi ngồi trong phòng trà, đợi bác Khương Sơn, vì tôi đã hứa gặp bác ấy.

Ông đưa tay che miệng ho, rồi tiếp:

- Thật là một thương gia cẩn thận không ai bì! Bác ấy với tôi... tốt đôi lắm! Chúng tôi rất phục nhau. Có khi bác ấy ưu thế hơn tôi, có khi tôi; bây giờ khác, chúng tôi đã thỏa thuận hầu hết mọi khoản. Bà nó nghĩ, nếu tôi ký kết giao kèo này – mà việc đó chắc chắn sẽ thực hiện sau khi đoàn thương hồ về đến nơi – thì hãng nhà họ Khương sẽ tiêu thụ tất cả hàng hóa nhập cảng bằng ngà, bằng sứ, khổng tước, các vật phẩm tầm phào Tây phương và nhạc cụ, nói tóm lại là tất cả hàng hóa ngoại quốc của chúng ta sẽ nhờ đó mà bán chạy như tôm tươi.

Hai nữ tì vẫn đứng hầu như thường lệ, thím Hoàng sau lưng bà Era và Trang sau lưng ông. Hai ông bà không để ý đến họ, xem họ chẳng khác gì bàn ghế trong phòng, mà họ cũng cho thế là tự nhiên. Ông Era chống tay vào bàn bảo vợ:

- Bà nó này, tôi muốn nói với bà một chuyện. Nhưng bà hãy chịu khó nghe…

- Chuyện gì thế?

Bà Era chưa gì đã sốt ruột.

- Bác Khương Sơn có một người con gái, mười sáu tuổi, xinh lắm…

- Sao ông biết?

- Đây nhé… hôm kia ngẫu nhiên tôi thấy con nhỏ. Số là bác Khương Sơn mời tôi đến chơi, nói về chuyện ký kết giao kèo ấy mà. Con nhỏ đang ở trong phòng khách, thấy tôi nó lánh mặt ngay. Nhưng bác Khương cho biết, đó là con gái của bác ta.

Bà Era không thể dằn lòng được nữa. Bà mím môi, nhìn chồng tức giận. Bà chua chát nói:

- Ông định đề nghị tôi cưới cô gái Trung Hoa ấy về làm dâu, nếu tôi không lầm.

Ông Era nhún vai và giơ hai tay lên đáp:

- Bà nó chắc thấy đám ấy lợi như thế nào rồi! Tôi nhập cảng hàng ngoại quốc, bác Khương có đến mười hai hãng tại những thị trấn phồn thịnh! Nói cho cùng, chúng ta đang ở Trung Quốc kia mà!

- Tôi không thấy gì cả. - Bà Era thét lên. – Tôi chỉ thấy ông đã đòi hỏi tôi một việc kỳ quái!

- Ờ!...

- Ông nên biết rằng Đavít phải kết hôn với Lịch!... - Giọng bà Era có vẻ tha thiết, gần khóc.

- Kìa, sau bao nhiêu năm rồi, bà nó đừng có cố chấp nữa!

- Chính thế, tôi phải cố chấp, nhất là sau bao nhiêu năm nay.

Ông Era lấy lời êm dịu thuyết phục:

- Bà nó nghĩ xem, đó chỉ là một lời hứa vô nghĩa lý mà hai bà đã vui miệng nói với nhau khi đôi trẻ còn nằm ngửa trong nôi.

Bà Era trịnh trọng:

- Một lời hứa thiêng liêng, thề trước Chúa Trời để gìn giữ sự thuần chủng của dân tộc ta.

- Nhưng…

- Nhất định thế.

- Bà nó nói thuần chủng thì hơi chậm rồi. Mẫu thân tôi người Trung Quốc.

- Tôi muốn quên điều đó đi!

Phút chốc, ông Era không còn tự chủ được nữa. Mặt đỏ bừng, ông vùng đứng dậy, nhưng nhanh như chớp, thím Hoàng đã đến trước mặt chủ, đẩy ông ngồi xuống ghế và giữ chặt hai cánh tay không cho đứng dậy.

- Lão gia, lão gia. - Thím Hoàng van lơn.

Ông Era dựa ngửa ra sau, thím Hoàng rót một chén trà, bưng hai tay dâng lên. Ông Era giằn lấy và đặt trước mặt vợ.

- Bà hãy uống chén trà này.

Thím Hoàng rót hầu ông Era chén khác. Trang lấy một cái quạt bằng lụa trắng, phe phẩy quạt cho ông. Ông thở dài, giở chiếc khăn lụa trên đầu, rồi đội lại như cũ. Một lát sau, ông bảo:

- Hay là chúng ta cho gọi Đavít đến thì hơn?

- Vô ích, khi mà chúng ta chưa đồng ý.

- Biết đâu Đavít sẽ giúp chúng ta đồng ý.

- Tôi không muốn ông nói với con về cô gái Trung Hoa ấy.

- Không, không. Tôi xin hứa. Nhưng chúng ta có thể dò ý tứ con về một cuộc hôn nhân nào đó. Ít nhất là đám kia…

Bà Era cướp lời:

- Sao lại ít nhất? Chính đám ấy mới là quan trọng.

Ông Era vỗ tay xuống gối nói:

- Trang, đi tìm Đavít đến đây!

- Vâng ạ. - Trang khẽ đáp rồi lặng lẽ ra khỏi phòng, trong lúc thím Hoàng rót thêm nước.

Bà Era lại nói:

- Không phải Đavít định đoạt điều đó được. Về điểm này tôi không đồng ý với ông.

- Tôi chắc bà sẽ không nỡ ép con lấy một người mà nó không ưa.

- Ai có thể không ưa Lịch? Nó vừa đẹp lại vừa hiền.

- Đã đành.

- Nếu không có nó, không biết vị giáo sĩ già của chúng ta sẽ ra sao?

- Thế thì cậu con trai vô dụng.

- Arông còn nhỏ quá mà!

- Nó chỉ kém chị nó một tuổi thôi.

- Lịch xem lớn tuổi hơn em nhiều.

- Ừ nhỉ. - Ông Era thẫn thờ đáp rồi ngồi im.

Ông vừa dối bà. Không phải ông đã trông thấy thiếu nữ nhà họ Khương, mà chính là Đavít. Nhưng làm sao giải thích với bà Era rằng: ông đã cố ý bảo con đến nhà họ Khương? Ông đã sai con mang một bức thư đến đó chính vào giờ mà các bà các cô trang điểm xong đang đi bách bộ trong các hoa viên để đổi không khí. Lúc Đavít về ông đã hỏi chàng:

- Sao mắt con lộ vẻ hoan hỉ thế kia? Con đã thấy gì?

Đavít đỏ mặt lắc đầu và chỉ trả lời vắn tắt:

- Thưa cha, đây là thư phúc đáp. - Chàng vừa nói vừa đặt bức thư của ông Khương Sơn lên bàn.

Ông Era lim dim đôi mắt, dựa ngửa ra sau và thong thả bẻ ngón tay. Dưới vẻ ngớ ngẩn ấy, tâm trí ông bị kích thích, làm việc rất lung, để phân tách các mối xúc cảm của mình. Ông là một người phiền tạp hơn là hỗn tạp. Trong huyết quản ông có hai dòng máu. Thân phụ ông đã tái hôn với một người đàn bà Trung Quốc, sinh ra ông. Bề ngoài ai cũng tưởng bà ta đã “nhập gia tùy tục”. Chỉ một mình ông Era biết lòng mẹ mà thôi. Trong phòng riêng, trong thâm tâm, bà ta chế nhạo tục lệ nhà chồng. Lấy chồng giàu có, bà sống một cuộc đời đầy lạc thú và cao lương mỹ vị đã làm cho bà phát phì một cách thái quá lúc về già. Nhưng bà không hề thay đổi quan niệm về cuộc đời, và còn ảnh hưởng đến chồng, ông Itraen, là đàng khác. Ông này lần hồi với năm tháng trôi qua, đã xao lãng các ngày lễ mà trước kia trong nhà giữ rất đúng mực và cử hành theo thỏa hiệp. Nhưng sau khi người vợ Trung Hoa qua đời, ông Itraen vô cùng hối hận và bị lương tâm cắn rứt, nên đã hối hả đi hỏi vợ cho con trai là Era - lúc bấy giờ mới mười lăm tuổi - nàng Naomy con gái đoàn trưởng Kiều dân đoàn Do Thái tại Khai Phong.

Era lúc bấy giờ còn mơ mộng và ngây thơ nên đã bằng lòng Naomy đẹp, đang độ thanh xuân, ai thấy mà chẳng mê. Nhưng sau khi thành hôn, Era biết vợ là người quá đỗi chuyên quyền. Lúc này đây ông đã tìm thấy trong kế hoạch thỏa hiệp do người mẹ Trung Hoa truyền cho, một thứ khí giới thiết thực mà ông đang tìm cách áp dụng.

Đột nhiên bà Era thét lớn:

- Mở mắt ra, ông làm gì mà coi bộ sững sờ vậy?

- Đúng thế bà nó ạ. - Ông Era vừa đáp vừa mở mắt rất to.

Bà Era lại khó chịu gắt:

- Thật là ngớ ngẩn, bây giờ lại mở to thế à?

Ông Era lại hạ mi mắt xuống và mỉm cười bí mật. Bà Era nhìn chồng, vẻ nhìn chua chát. Ông Era nhìn trả lại cũng không kém vẻ chua cay. Bà quay nhìn chỗ khác:

- Đavít đâu mà không thấy đến nhỉ?

Thím Hoàng thưa:

- Có lẽ cậu con ở ngoài vườn hay đâu đấy.

Hết thảy tôi tớ trong nhà đều hiệp sức bênh cậu thiếu chủ.

Ông Era chưa kịp đáp, bỗng nghe có tiếng bước chân, Trang đi trước Đavít, nàng nhẹ nhàng vén bức rèm sa tanh đỏ.

Chàng thanh niên bước vào và mạnh dạn nhìn song thân đang quay mặt về phía mình.

- Bẩm, ba mẹ cho gọi con?

- Con vào ngồi xuống đây. - Ông Era hiền từ bảo.

- Nãy giờ con ở đâu? - Bà Era đồng thời hỏi.

Im lặng, Đavít đến ngồi cạnh cha. Trang pha một chén trà nhẹ nhàng đặt trước mặt chàng. Rồi nàng trở lại đứng sau lưng ông Era, rút chiếc quạt khẽ phe phẩy. Đavít nhìn nàng, nhưng nàng nhìn xuống và chàng quay nhìn nơi khác. Nào ai có thể đoán được những tư tưởng đang nung nấu dưới đôi mắt bình thản và lóng lánh như mặt nước mùa thu ấy!

- Đavít, đã đến lúc… - Bà Era vừa nói thì Đavít thình lình quay sang ngắt lời mẹ:

- Đã đến lúc gì hở mẹ?

- Con biết rồi lại còn hỏi mẹ.

Bà tỏ ra nhỏ nhẹ, giọng van lơn vì bà biết cậu con cưng đôi khi cứng cổ đến mức nào rồi.

- Thưa mẹ, con có biết gì đâu.

Bà Era vẫn một giọng van lơn:

- Năm nay Lịch mười tám tuổi, Đavít ạ. Mẹ biết con là người đứng đắn và mẹ đã có lời hứa với mẹ nàng…

- Các bà hứa với nhau thì có quan hệ gì đến con?

- Nhưng con vẫn biết…

Đavít lại ngắt lời mẹ:

- Nhưng con không biết gì nữa! Vả lại, con không yêu Lịch.

- Nhơ nhuốc chưa! Thế mà con có vẻ săn đón nàng tối hôm qua.

- Sáng nay con nhớ lại thì… mũi nàng dài quá.

Bà Era hết nhìn người này đến nhìn người khác, rồi nói:

- Nàng hiền, đẹp nữa, và tinh thông giáo lý. Nàng sẽ là một ánh sáng trong gia đình này sau khi tôi trăm tuổi.

- Nhưng như thế cũng không cấm được nàng có một sống mũi quá dài.

Đavít có thói quen cãi lại mẹ và cãi một cách vô lý. Chàng thừa biết mũi Lịch đẹp, và nếu mẹ chàng không nói gì thì có lẽ chàng chỉ còn nhớ vẻ đẹp ấy thôi. Nhưng nơi chàng còn có cái gì trẻ con, và càng tìm mọi cách để cảm thấy mình hoàn toàn tự do; chàng nhìn mẹ tỏ vẻ bất mãn, rồi phì cười, vui vẻ nói:

- Con xin mẹ đừng cưới vợ cho con sớm quá!

Ông Era phá lên cười, Trang cũng không nhịn được nên một nụ cười đã hé nở trên môi nàng, duy gương mặt mụ Hoàng là vẫn bình thản như thường. Bà Era cảm thấy không ai nâng đỡ bà cả, bà cắn môi thở dài và cầu cứu đến lòng thương yêu vô hạn của bà đối với Đavít. Bà quay lại phía chàng, đôi mắt u sầu đầy lệ và với giọng run run, dịu dàng khuyên dỗ:

- Đavít, con nỡ nào làm tan nát lòng mẹ cho đành? Nhưng không, mẹ không đòi hỏi con phải nghĩ đến mẹ, con hãy nghĩ đến dân tộc chúng ta. Con và Lịch phối hợp… con cháu chúng ta sẽ giữ được thuần túy huyết thống Do Thái tại xứ ngoại giáo này. Một thiếu nữ đức hạnh như thế… sẽ là một người vợ luôn luôn yêu chồng, một người mẹ dạy dỗ con cái trong đạo lý của Chúa! Và khi đến lúc trở về xứ sở chúng ta nơi đất Hứa…

Đavít ngắt lời mẹ:

- Nhưng con không muốn rời khỏi nơi này, nơi chôn nhau cắt rốn của con!

Bà Era bỏ giọng khuyên dỗ, đùng đùng nổi giận, bà thét:

- Con dám ăn nói với mẹ như vậy à? Xin Chúa ban phước cho chúng ta trở về quê cha đất tổ trước ngày chúng ta nhắm mắt: con, mẹ và tất cả gia đình chúng ta!

Ông Era che tay ho:

- Bà nó ạ, tôi không thể bỏ công việc ở đây được.

Bà Era gắt chồng:

- Không phải chuyện ngày mai. Tôi nói đến lúc do Chúa định, khi mà các nhà tiên tri sẽ hướng dẫn chúng ta.

Đột nhiên Đavít nói:

- Có lẽ con nói rõ câu chuyện này thì hơn. Thưa mẹ, con xin thú thật với mẹ một điều. - Chàng vừa nói vừa đứng dậy, đứng rất thẳng trước mặt song thân, cao lớn và đẹp trai đến nỗi mọi con mắt đều đổ dồn vào chàng. - Thưa mẹ, con sẽ không kết hôn với Lịch, vì con yêu một người khác.

Bà Era há miệng kinh ngạc. Ông Era bưng chén nước trà lên uống. Trang nhìn sững Đavít, và chiếc quạt trong tay nàng không động đậy nữa. Thím Hoàng quay đầu lại nhìn.

Bà Era hỏi:

- Ai vậy?

Đavít đỏ mặt nhìn ngay mặt mẹ đáp:

- Con có thấy một người trong nhà họ Khương.

- Lúc nào?

- Thưa mẹ, mới hai hôm nay.

Bà Era xoay lại phía chồng, mắt sáng quắc.

- Ông đã bảo chính ông…

Ông Era thở dài buồn bã:

- Bà đã buộc tất cả chúng tôi phải nói dối.

Ông nhướng đôi mi mắt nặng nề bảo Đavít:

- Bây giờ con đã bắt đầu rồi, thì nên nói tiếp đi. Con đã thấy một thiếu nữ xinh đẹp, con có trò chuyện với nàng không?

Đavít kêu lên:

- Lẽ dĩ nhiên là không! Nàng… Nàng có nói… mấy tiếng hình như là: Ồ! Ồ! Và nàng chạy trốn như một… như một…

- Như một con linh dương. - Ông Era tiếp lời con.

Đavít ngạc nhiên hỏi:

- Sao ba biết? Ba cũng có thấy cô ta sao?

- Không, không! Nhưng ba nghĩ “linh dương” là chữ đúng hơn cả.

Bà Era vội kêu to lên:

- Thật điên rồ làm sao! Cha chả là tức!

Đột nhiên ông Era đứng dậy:

- Bà nó miễn chấp nhé! Thật tình tôi không thể ngồi rán thêm nữa. Bác Khương Sơn đang đợi tôi, và chắc bà nó cũng rõ là không thể để bác ấy đợi lâu.

Bà Era giọng quả quyết:

- Cả hai cha con hãy ngồi xuống đây đã. Đavít, lễ đính hôn của con sẽ cử hành vào ngày mồng mười tháng tám tới, kỷ niệm ngày thân mẫu Lịch và mẹ đã hứa với nhau.

Bà nhìn Đavít, chàng phải cúi xuống, càu nhàu:

- Con không ưng… con không ưng. Con sẽ tự tử đấy!

Chàng quay lưng ra khỏi phòng.

- Trang, con theo chân cậu con mau! - Ông Era bảo.

Không đợi lệnh ấy, Trang đã ra gần đến cửa và nàng khuất mình sau bức rèm sa tanh.

Những lời thú nhận của Đavít đã làm nàng ngạc nhiên, nàng, người tưởng đã biết rõ trái tim chàng! Sự giấu giếm này làm nàng khổ sở hơn là ý nghĩ về Lịch tối hôm qua. Nàng băng qua hành lang và vội vã đi dọc theo các hiên nhà bọc quanh hoa viên. Đavít đi ngõ nào kìa?

Nàng dừng lại, một ngón tay đưa lên môi, mắt lim dim suy nghĩ: Chắc chàng định chạy trốn, nhưng chạy đi đâu, nếu không phải là ra ngoài đường? Nàng quay gót chạy ra cửa chính, lanh lẹ và nhẹ nhàng.

Trong gian phòng chính im lặng, hai ông bà Era vẫn ngồi. Thím Hoàng thở dài lại lấy bình rót thêm nước ra chén. Gương mặt ông Era có vẻ lo lắng còn bà thì lấy khăn tay lau nước mắt. Một lát sau, ông nói với bà giọng rất ôn tồn:

- Bà nó ơi! Chúng ta hiếm hoi chỉ có mỗi một mình nó.

Không để mình bị lay chuyển, bà Era đáp một cách tức tối và khổ sở:

- Thà đừng sinh ra nó còn hơn thấy nó đối với dân tộc ta là một người bỏ đi.

Ông Era thở dài, đứng dậy và soạn sửa bước ra, nhưng lại không yên tâm để vợ ở lại một mình trong tình trạng này. Sau bao năm, ông biết rõ trái tim bà lắm, trái tim cố chấp và sôi nổi của một người đàn bà Do Thái với thiên chức làm vợ, làm mẹ. Ông buồn rầu nói:

- Chao ôi! Ít ra các bà hãy để cho đàn ông chúng tôi được là chúng tôi chứ?

Bà không đáp, quay đầu đi, tay vẫn cầm khăn chặm nước mắt. Ông ra hiệu cho thím Hoàng, và vừa nói vừa bước ra khỏi phòng:

- Lo săn sóc cho bà!

Sau khi chồng ra khỏi, bà Era khóc nức nở. Theo thói quen đã có từ lâu, thím Hoàng đến cạnh bà Era, cầm lấy bàn tay bà, dịu dàng thoa bóp hết các ngón tay đến cườm tay và véo nhẹ vào da thịt chắc nịch của chủ. Xong tay này, người nữ tì lại xoa bóp tay kia, rồi lấy hai lòng bàn tay bóp đi, bóp lại hai bên thái dương của chủ, dễ chịu đến nỗi bà Era dựa ngửa ra ghế bành thiu thiu ngủ, sự đau khổ vì thế mà nguôi dần.

Nhưng thím Hoàng còn cảm thấy dưới bàn tay mình, trí óc chủ chưa êm dịu hẳn, nên đã thì thầm:

- Hơi đâu! Thưa bà, cứ để cho đàn ông họ theo ý muốn của họ. Can hệ gì đến bà? Ăn… ngủ… vui hưởng cuộc đời… thế là hơn cả.

Câu nói này thốt ra không đúng lúc, và đột nhiên thím Hoàng hối hận vì đã lỡ lời. Bà Era vùng dậy, mở bừng mắt ra, nhìn người nữ tì với đôi mắt tràn đầy nộ khí và mắng với một giọng vô cùng khinh bỉ:

- Đồ chệc! Đồ chệc

Bà đứng dậy vừa mắng vừa hất tay thím Hoàng, đĩnh đạc bước vội ra khỏi phòng.

Thím Hoàng nhìn theo chủ, rồi sờ xem bình trà còn nóng, rót đầy chén ông Era đã uống và bưng hai tay ra ngồi trước thềm cửa. Thím Hoàng ngồi đấy sưởi nắng và ngắm hoa viên ngập ánh mặt trời với đôi mắt đăm chiêu, vừa uống nước trà từng ngụm nhỏ.

Chú thích:

[1] Lễ kỷ niệm ngày dân tộc Do Thái vượt qua Hồng Hải.

[2] Một loại cỏ chua.

Lời Giới Thiệu - 1 -

Tiến >>

Thanh Vân sưu tầm
Nguồn: tve-4u.org
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 3 năm 2020